Chăm Sóc, Bón Phân Cho Cà Phê Trong Mùa Mưa
(Theo www.binhdien.com )
Mùa mưa bắt đầu cũng là lúc quả cà phê vối bắt đầu tăng nhanh về kích thước, cùng lúc đó có sự tăng trưởng nhanh của cành, chồi trên cây cà phê. Do vậy cần cung cấp đầy đủ dinh dưỡng và điều tiết ánh sáng cho phù hợp với tình trạng sinh lý của cây để cây vừa nuôi quả tốt vừa tạo ra bộ khung cành dự trữ khỏe mạnh cho năm tiếp theo. Các biện pháp chăm sóc chủ yếu cho vườn cà phê trong mùa mưa như sau.
1. Rong tỉa cây che bóng kịp thời
Ở các vườn cà phê kiến thiết cơ bản cần rong tỉa cây che bóng tạm thời là cây muồng hoa vàng trồng giữa 2 hàng cà phê. Chặt thấp cây muồng hoa vàng ở độ cao 50-70cm để cây muồng tái sinh tốt. Trong một mùa mưa, cần rong tỉa hàng muồng hoa vàng này 2-3 lần để cà phê không bị cạnh tranh ánh sáng. Cành lá muồng hoa vàng đem tủ vào gốc cây cà phê.Ở các vườn cà phê kinh doanh có trồng cây che bóng như keo dậu, muồng đen, cần rong tỉa cây bóng kịp thời ngay vào đầu mùa mưa để tăng cường ánh sáng cho vườn cây, giúp cành lá cà phê phát sinh vào đầu mùa mưa được khỏe mạnh, không bị yếu, nhớt. Đầu mùa mưa rong tỉa mạnh, chỉ để lại 1-2 cành hút nhựa nhỏ cho cây che bóng. Khi rong tỉa cây che bóng, chú ý không làm gãy, dập cành cà phê. Giữ yên cành lá cây che bóng được rong tỉa xuống trong vườn cà phê một thời gian cho lá rụng xuống làm phân xanh bồi dưỡng cho vườn, sau đó mới chuyển các cành to ra khỏi vườn để tiện việc đi lại, chăm sóc vườn cà phê. Trong mùa mưa, rong tỉa từ 2 - 3 lần tùy theo tốc độ ra lá cành của cây che bóng, tránh không cho vườn cà phê bị cớm, rợp. Đợt rong tỉa cuối cùng trước khi chấm dứt mưa 1 tháng.
2. Đánh chồi vượt cho cây cà phê
Chồi vượt phát triển rất nhanh trong mùa mưa, do vậy cần đánh chồi vượt kịp thời. Trung bình 1 tháng đánh chồi vượt 1 lần. Khi đánh chồi vượt chú ý vặt các cành tăm, cành nhớt mọc quá nhiều ở cùng một vị trí đốt cành. Ở mỗi vị trí đốt cành chỉ nên để lại không quá 3 cành dự trữ được phát sinh. Chú ý vặt các cành thứ cấp mọc dày trên đỉnh tán tạo điều kiện để ánh sáng lọt vào bộ tán cà phê.
3. Đào rãnh ép xanh, hoặc cày rạch hàng ép xanh
Công việc tạo bồn hoặc cày rạch hàng có thể thực hiện trong mùa mưa, từ sau khi bón phân hóa học đợt một khoảng 20 ngày cho đến trước khi chấm dứt mưa 1,5 - 2 tháng. Đào rãnh sâu 30cm, dài 1m, rộng 20-25cm dọc theo mép trong bồn cà phê, mỗi gốc cà phê đào 1-2 rãnh. Dồn tất cả cỏ rác trên lô và cả phân chuồng nếu có vào rãnh, lấp đất lại. Cũng có thể dùng cày tời để cày rạch hàng giữa 2 hàng cà phê, cày sâu 50cm, nên cày 1 hàng, bỏ một hàng và năm sau lại cày luân phiên để hạn chế làm tổn thương bộ rễ cà phê. Tương tự như rãnh đào trong mép bồn, rãnh cày là vị trí để ép xanh cỏ rác trên lô và bón phân chuồng. Dùng cày tời rất tiện lợi, đỡ tốn công lao động thủ công, cày được sâu, công việc được thực hiện nhanh chóng, cành lá cà phê ít bị gãy dập do máy cày ở bên ngoài lô, chỉ có lưỡi cày và người điều khiển cày đi giữa 2 hàng cà phê.
4. Làm cỏ, bón phân
Làm sạch cỏ trên hàng cà phê, không để cỏ dại cạnh tranh với cà phê. Bón phân cho cà phê sau khi làm cỏ sạch. Liều lượng phân bón và loại phân bón như sau:
- Phân hữu cơ: cứ 2-3 năm bón phân hữu cơ 1 lần với liều lượng 20-30 m3/ha hoặc bón phân hữu cơ Đầu Trâu CP với lượng 1-2 tấn/ha. Kết hợp việc bón phân hữu cơ với đào rãnh ép xanh cho vườn cà phê.- Vôi bột: bón 300-400 kg/ha/năm, rải tung đều khắp mặt đất, tiếp xúc với đất càng nhiều càng tốt, không cần lấp đất.
- Phân hóa học:
* Các năm trồng mới và kiến thiết cơ bản:Sử dụng phân NPK 16-16-8-13S Đầu Trâu hoặc NPK 20-20-15-TE Đầu Trâu bón với liều lượng sau:
+ Năm trồng mới: 400-600 kg/ha+ Năm thứ 2: 600-700 kg/ha
+ Năm thứ 3: 800-900 kg/ha
Lượng phân trên được chia ra bón 3 lần trong mùa mưa.
* Cà phê kinh doanh:Sử dụng loại phân NPK 16-8-16-13S-TE Đầu Trâu, có thành phần NPK cân đối, có thành phần lưu huỳnh và trung vi lượng cần thiết phù hợp với nhu cầu dinh dưỡng cà phê trong mùa mưa.
Bón 3 lần trong mùa mưa. Đối với vườn cà phê đạt từ 3-4 tấn nhân/ha, bón với liều lượng sau:
+ Đợt 1: 500-700 kg/ha, bón vào đầu mùa mưa, khi mưa đã đều.+ Đợt 2: 700-800 kg/ha, bón vào giữa mùa mưa.
+ Đợt 3: 800-1000 kg/ha, bón vào gần cuối mùa mưa, trước khi chấm dứt mưa ít nhất là 20 ngày.Nếu năng suất vườn cây cao hơn mức 3-4 tấn nhân/ha, ở mỗi đợt bón, cần bón tăng cường thêm từ 150-200 kg/ha/lần.
Bỏ phân khi đất đủ ẩm. Rạch rãnh xung quanh tán cây cà phê, rải phân đều và lấp đất.
5. Tạo hình, sửa cành
Đối với vườn cà phê đầu thời kỳ kinh doanh có chiều cao cây thấp thì khi bộ tán cây đã ổn định tiến hành nuôi tầng hai từ đầu mùa mưa. Để 1 chồi vượt mọc lên từ dưới vị trí hãm ngọn lần thứ nhất khoảng 10cm. Khi độ cao cây đạt 1,6m kể từ mặt đất thì hãm ngọn lần hai và giữ ở độ cao này suốt chu kỳ kinh doanh của cây cà phê. Sau khi hãm ngọn chú ý vặt các chồi vượt mọc ra rất nhanh ở ngọn tán.
Đối với vườn cà phê kinh doanh lâu năm, sau khi thu hoạch đã có một đợt cắt cành chính để loại bỏ các cành già cỗi, các cành vô hiệu, cành khô, cành bị sâu bệnh, cành nhỏ yếu.....Đầu mùa mưa, cần có một đợt cắt sửa cành nhẹ để tiếp tục loại bỏ các cành khô các cành vô hiệu mới phát sinh trong mùa khô.
Đến khoảng tháng 8-9 khi quả cà phê đã lớn sửa cành một lần nữa. Mục đích của đợt sửa cành lần này là để định lại các cành dự trữ cho mùa thu hoạch năm đến, do vậy trong đợt này cần cắt bớt các cành thứ cấp mọc quá rậm rạp, các cành thứ cấp bị vống, yếu, chỉ để lại các cành dự trữ khỏe mạnh, lóng đốt ngắn hứa hẹn sự ra hoa quả tốt trong mùa khô sắp đến.
6. Phòng trừ sâu bệnh
Các loại sâu bệnh thường hay xuất hiện trong mùa mưa là:
Rệp vảy xanh (Coccus viridis), rệp vảy nâu (Saissetia hemisphaerica): Các loại rệp này thường tập trung trên các bộ phận non của cây như: chồi vượt, cành, lá, quả non... để chích hút nhựa làm rụng lá, quả khiến cây bị kiệt sức và có thể gây chết cây. Rệp thường xuất hiện nhiều trên các vườn cà phê kiến thiết cơ bản hơn các vườn cà phê kinh doanh. Biện pháp phòng trừ
- Làm sạch cỏ trong lô, cắt bỏ các cành sát mặt đất để hạn chế sự lây lan của rệp thông qua kiến.- Dùng một trong các loại thuốc Bi58, Subatox, Suprathion, Supracide, Pyrinex... nồng độ 0,2-0,3% để phun trừ rệp, phun 2 lần cách nhau 7-10 ngày và chỉ phun thuốc trên những cây có rệp.
Mọt đục quả (Stephanoderes hampei): Mọt gây hại chủ yếu trên các quả xanh già, quả chín trên cây và có khả năng phát triển trong quả khô còn sót trên cây, dưới đất và cả trong quả cà phê khô cất trong kho nếu phơi chưa khô, độ ẩm nhân > 13%.
Biện pháp phòng trừ:
- Vệ sinh đồng ruộng, thu hoạch kịp thời các quả chín trên cây và phải nhặt hết các quả khô dưới đất, còn sót trên cây để cắt đứt sự lan truyền của mọt.
- Bảo quản quả khô hay nhân ở độ ẩm dưới 13% (sau thu hoạch).
Bệnh gỉ sắt (Hemileia vastatrix): Đây là loại bệnh gây hại phổ biến trên các vườn cà phê. Nấm ký sinh vào mặt dưới của lá, ban đầu là những vết màu vàng lợt, sau đó xuất hiện lớp phấn màu da cam, các vết bệnh lớn dần và gây rụng lá một phần hay toàn bộ khiến cây bị kiệt sức. Bệnh thường xuất hiện vào đầu mùa mưa và phát triển mạnh nhất vào cuối mưa.
Biện pháp phòng trừ:
Phun một trong các loại thuốc Tilt, Bumper, Bayleton nồng độ 0,1% hay Anvil nồng độ 0,2% để phòng trừ bệnh. Khi phun thuốc phải đảm bảo các yêu cầu sau:
+ Phun kỹ vào mặt dưới của lá+ Thời điểm phun lần đầu khi cây có 10% lá bệnh (thường xảy ra sau khi bắt đầu mùa mưa 2-3 tháng), phun 2-3 lần cách nhau 1 tháng.
+ Hàng năm phải tiến hành phun thuốc vì thuốc chỉ có tác dụng phòng trừ bệnh trong năm và chỉ phun cho những cây bị bệnh.
Ngoài ra, để có thể loại bỏ hẳn các cây bị bệnh, dùng phương pháp ghép chồi thay thế. Cưa các cây bị bệnh gỉ sắt nặng, sau đó ghép các dòng cà phê vối chọn lọc có khả năng chống chịu gỉ sắt vào.
Bệnh khô cành, khô quả
Bệnh có nguyên nhân do mất cân đối dinh dưỡng hay bị nấm Colletotrichum coffeanum gây nên. Bệnh gây hại chủ yếu trên cành, quả, làm khô cành và rụng quả. Các vết bệnh do nấm gây ra ban đầu có màu nâu vàng sau đó lan rộng và chuyển sang màu nâu sẫm, các vết bệnh thường lõm sâu xuống so với các phần không bị bệnh.
Biện pháp phòng trừ:- Trồng cây che bóng hợp lý và bón phân cân đối để hạn chế tình trạng cây bị kiệt sức do ra quả quá nhiều. Cắt bỏ các cành bệnh.
- Có thể dùng một trong các loại thuốc sau đây để phòng trừ nấm gây khô cành, khô quả: Carbenzim 0,2%, Tilt 0,1%, Bumper 0,1%. Phun vào đầu mùa bệnh trên các vườn xuất hiện bệnh. Phun 2-3 lần cách nhau 15 ngày.Bệnh nấm hồng (Corticum salmonicolor): Bệnh do nấm gây nên. Vị trí tác hại chủ yếu ở trên cành phần trên của tán, gần nơi phân cành và phần ngọn của cây. Bệnh thường phát sinh trong các tháng cuối mùa mưa. Vết bệnh ban đầu là những chấm trắng nằm ở mặt dưới của cành về sau chuyển sang màu hồng và khi vết bệnh lan rộng khắp chu vi của cành có thể gây chết cành. Biện pháp phòng trừ chủ yếu là phát hiện kịp thời để cắt bỏ các cành bệnh, nếu bệnh xuất hiện phổ biến có thể dùng thuốc Validacin nồng độ 2% hay Anvil 0,2%, phun 2-3 lần cách nhau 15 ngày.
Có thể bạn quan tâm
Chỉ vì trồng theo phong trào, không theo quy hoạch và khuyến cáo của ngành chức năng, người dân huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắ`k lâm vào cảnh lao đao, nợ nần do cây cao su không phù hợp thổ nhưỡng.
Rừng khộp còn gọi là rừng thưa nhiệt đới hay rừng nhiệt đới rụng lá thường thấy ở Đông Nam Á tại các vùng có cao trình dưới 1.000 m, với đặc điểm là tầng đất mặt mỏng. Thực bì bao gồm cây rụng lá xen lẫn cây thường xanh ở mức độ khác nhau, trong đó cây chỉ thị là những loài thuộc họ Dầu như: dầu đọt tím, dầu bao, dầu rái, kiền kiền, sao, vên vên, sến.…Rừng khộp phân bố trên nhiều địa hình khác nhau, trên vùng đất bằng phẳng úng nước trong mùa mưa và khô hạn trong mùa khô thường xuất hiện rừng khộp nghèo. Quy trình khai hoang, thiết kế lô và xây dựng vườn cây này chỉ áp dụng trên đất rừng khộp nghèo ngập úng.
Kỹ thuật kích thích mủ cao su là việc sử dụng chất kích thích ngày càng được ứng dụng rộng rãi. Qua nhiều năm sử dụng chất kích thích cho thấy cây không bị ảnh hưởng đến năng suất nếu sử dụng đúng theo khuyến cáo như sau
Ở thời kỳ kinh doanh, bên cạnh việc cho thu hoạch mủ cây vẫn sinh trưởng phát triển thân cành tán lá và thay lá rụng đặc biệt từ năm thứ 9 đến năm thứ 12.
Kỹ thuật trong ứng dụng nhịp độ thấp D4 ở miệng cạo ngửa” cho thấy trung bình năng suất cá thể cũng như năng suất lao động tăng từ 11 – 19%.