Bí Quyết Thu Hút Nông Dân Ở Sơn La
“Nội dung hoạt động hội phải gắn với quyền lợi của hội viên, nông dân. Nông dân no ấm, hạnh phúc thì tổ chức hội vững mạnh” - đó là tâm sự của bà Trần Thị Kim Loan - Chủ tịch Hội Nông dân (ND) thành phố Sơn La.
Là thành phố miền núi mới thành lập 5 năm, cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế nên đời sống của bà con ND các dân tộc thành phố Sơn La vẫn còn không ít khó khăn. Các cấp Hội ND thành phố đã có nhiều giải pháp giúp ND xóa nghèo, làm giàu.
Nhà nào cũng có hội viên
Chỉ vào diện tích đất nương vừa được làm cỏ, chuẩn bị cho vụ tra hạt ngô xuân hè, chị Lò Thị Kim ở bản Pát, xã Chiềng Ngần, bảo: “Năm nào cũng vậy, Hội ND xã và thành phố đều cung ứng giống ngô, phân bón chất lượng, giá phải chăng cho ND chúng tôi.
Nhờ thế, việc gieo trồng của chúng tôi luôn đạt tiến độ thời vụ, năng suất cũng cao hơn. Hội còn tổ chức các lớp khuyến nông cho ND. Nhiều hộ nghèo và cận nghèo ở xã này đã được vay vốn ưu đãi thông qua tổ chức hội, vì thế nhà ai cũng có lao động chính tham gia vào Hội ND.
Với những hội viên thuộc chi hội tiểu khu II xã Chiềng Xôm thì: “Hội ND giúp chúng tôi nhiều việc lắm. Không chỉ trang bị cho chúng tôi những kiến thức sản xuất, kinh doanh đạt hiệu quả cao; tạo vốn cho chúng tôi sản xuất mà hội còn giúp chúng tôi có được hệ thống mương phai tưới tiêu chạy suốt bản Panh này.
Từ giáp Tết Nguyên đán vừa qua đến nay, các hộ trong xã được hội phối hợp với Điện lực thành phố sửa chữa, tái tạo lại lưới điện sử dụng trong nhà, vừa tiện lợi, đẹp mắt lại đảm bảo an toàn khi sử dụng. Nhà tôi cũng mới làm lại tất cả lưới điện trong nhà với sự giúp đỡ của hội, không lôi thôi, luộm thuộm, mất an toàn như trước nữa mà tốn kém chẳng đáng là bao” - bà Tòng Thị Xuấn, bản Hụm, xã Chiềng Xôm, TP.Sơn La bảo.
Nông dân tin Hội
Từ những việc làm thiết thực của Hội, ND thêm tin tưởng, tích cực tham gia tổ chức hội và những hoạt động do hội tổ chức. Năm 2013 đã có thêm 371 ND tự nguyện tham gia tổ chức hội, vượt trên 57% kế hoạch. Công tác xây dựng Quỹ hội được hội viên hưởng ứng cao với 100% cơ sở hội, chi hội có quỹ và vượt chỉ tiêu đề ra ở mức cao. Quỹ được sử dụng rất hiệu quả thông qua việc cho hội viên nghèo vay làm vốn sản xuất.
Năm 2013, toàn thành phố đã có thêm 371 ND tự nguyện tham gia tổ chức hội, vượt trên 57% kế hoạch. Công tác xây dựng Quỹ hội được hội viên hưởng ứng cao với 100% cơ sở hội, chi hội có quỹ và vượt chỉ tiêu đề ra ở mức cao.
Ông Lò Văn Hải, nông dân bản Mé, phường Chiềng Cơi, cho biết: Khi Hội ND thành phố huy động bà con tham gia làm nhà đại đoàn kết để giúp đỡ hộ nghèo trong bản, chúng tôi hưởng ứng ngay; khi hội phát động trồng cây đầu xuân hay ra quân làm thủy lợi, tu sửa đường giao thông… cũng chẳng ai từ chối. Hội đã chiếm lòng tin yêu của dân rồi nên việc huy động sức dân lớn lắm.
Nói về lòng tin của hội viên, ND với Hội, bà Trần Thị Kim Loan, bảo: Khi Hội hoạt động thật sự vì ND và hiệu quả thì sức cuốn hút của Hội với ND rất lớn. Hàng năm, tỷ lệ hộ ND đăng ký SXKD giỏi và tỷ lệ đạt danh hiệu của chúng tôi đều vượt chỉ tiêu đề ra.
Trong năm vừa qua, chúng tôi đã huy động được hơn 19.300 ngày công của hội viên, ND tham gia làm mới 27,65km đường; sửa chữa 194,45km đường; kiên cố hóa và sửa chữa 12km kênh mương; xây dựng nhà văn hóa bản; hưởng ứng các chương trình: Phòng chống tai nạn - tệ nạn xã hội; bảo vệ và phát triển vốn rừng, xóa đói nghèo lạc hậu… Khi hội viên đã mạnh, đã tin tưởng vào tổ chức thì Hội cũng sẽ mạnh lên, đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ mà Đảng tin, dân cậy.
Có thể bạn quan tâm
Nằm trong hợp phần B của Dự án Cạnh tranh Nông nghiệp do Ngân hàng Thế giới tài trợ, liên minh sản xuất cà phê bền vững Chư Prông (Gia Lai) giữa Tổ hợp tác gồm 100 hộ nông dân các xã Ia Phìn, Ia Băng, Ia Kly và thị trấn Chư Prông được triển khai thực hiện năm 2010.
Anh Lâm Văn xuyến, 58 tuổi, ở thôn đầu suối A (xã Phước Chiến, huyện Thuận Bắc) trồng thí điểm 3.000 cây chuối trên 3 ha đất rẫy.
Là huyện miền núi ven biển có gần 70% là người dân tộc thiểu số, 5/6 xã là vùng đặc biệt khó khăn về kinh tế, nên việc nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất nông nghiệp có ý nghĩa không chỉ đối với đời sống người dân mà còn là đòn bẩy thúc đẩy kinh tế huyện Thuận Bắc phát triển.
Nhìn lại năm qua, với tổng sản lượng khai thác hải sản toàn tỉnh lên khoảng 63.669 tấn, vượt 11,7% kế hoạch và tăng 13,9% so với năm trước, có thể lạc quan trước sức phát triển mới về năng lực tàu cá tỉnh ta. Tuy nhiên, nếu nhìn ở cơ cấu hải sản đánh bắt với 80% sản lượng là cá cơm, cá nục và hầu như chưa có sự chuyển dịch đáng kể nào về thuyền nghề, chúng tôi không khỏi băn khoăn trước tương lai nghề cá tỉnh nhà.
Ông Trần Phương là tấm gương nông dân sản xuất giỏi ở thôn Mỹ Nhơn, xã Bắc Phong (Thuận Bắc). Từ trồng lúa và nuôi bò sinh sản, mỗi năm gia đình ông thu về cả trăm triệu đồng.