Bệnh Vàng Lá Trên Lúa

1. Giới thiệu:
Bệnh vàng lá hay là bệnh vàng lá chín sớm. Đây là bệnh mới xuất hiện và gây hại từ vụ Đông Xuân năm 1988 ở tiền Giang. Hầu hết các giống cao sản ngắn ngày đều có thể nhiễm bệnh.
2. Triệu chứng bệnh
o Bệnh thường xuất hiện và gây hại ở giai đoạn 7 – 10 ngày trước khi trổ cho đến khi thu hoạch.
o Trên lá khi bệnh mới xuất hiện là các đốm hình bán nguyệt nhỏ 1 – 3 mm, màu vàng cam.
o Sau đó từ vết bệnh làm chết các mô lá thành từng sọc dài tới chop lá màu vàng cam.
o Trên một lá có thể xuất hiện nhiều vết bệnh
o Bệnh nặng có thể xuất hiện các vết đốm trên bẹ lá.
o Trên ruộng bị bệnh nặng nhìn trên ruộng có màu vàng rực giống như màu lúa chín.
o Nhiều nơi gọi là bệnh vàng lá chín sớm.
3. Tác nhân gây hại:
o Tác nhân gây hại của bệnh vàng lá lúa còn có nhiều tranh cãi chưa được xác định chính xác.
o Tuy nhiên đã có nhiều kết quả cho thấy sử dụng các loại thuốc trị nấm bệnh có hiệu quả tốt ngăn chặn sự phát triển và mức độ hại của bệnh.
o Bệnh vàng lá lúa thường gây hại nặng trên các ruộng lúa xanh tốt, mật độ sạ dày hoặc bón nhiều phân đạm.
o Những mãnh ruộng gần vườn cây có bị che nắng buổi sáng hoặc buổi chiều thường bị bệnh nặng hơn.
4. Biện pháp phòng trừ:
o Sử dụng các giống lúa cứng cây, tán lá thẳng.
o Các ruộng cọ bị bệnh cần được vệ sinh sạch nguồn rơm rạ hoặc đốt sau khi thu hoạch.
o Bón phân cân đối NPK và không bón quá nhiều phân đạm.
o Sử dụng một số loại thuốc trị nấm bệnh ở giai đoạn trước khi trổ hoặc khi vết bệnh mới xuất hiện.
o Các thuốc hóa học có thể hạn chế sự gây hại của bệnh vàng lá gồm Benlate, Anvil, Derosal và copper B.
Có thể bạn quan tâm

1. Chế độ phân bón: Tập quán canh tác cũ là bón phân đơn riêng rẽ, không cân đối được dinh dưỡng, dẫn đến mức độ lúa nhiễm bệnh cao, tỷ lệ hạt lép nhiều, trọng lượng hạt thấp. Biện pháp tốt nhất là bón phân đa yếu tố NPK đã được cân đối dinh dưỡng phù hợp cho quá trình sinh trưởng, phát triển của cây lúa. Các giống lúa thuần và lúa lai sẽ có các công thức bón thúc khác nhau. Không bón thúc khi nhiệt độ thấp dưới 18 độ C.

Theo đánh giá của tổ chức Nông-Lương Liên Hợp Quốc (FAO) hàng năm tổn thất về ngũ cốc trên toàn Thế giới khoảng 13% nghĩa là 13 triệu tấn lương thực bị mất và không sử dụng được. Ở Việt Nam tỷ lệ tổn thất nông sản sau thu hoạch trên 13%, như vậy hàng năm chúng ta bị mất khoảng 3-5 triệu tấn thóc. Năm 2006 diện tích lúa của tỉnh ta là gần 41 nghìn ha và phấn đấu sản lượng đạt trên 170 nghìn tấn thóc.

Nhằm giúp bà con nông dân khắc phục những tình trạng như: nấm mốc, lên men, nhiễm sâu mọt, tự bốc nóng…của hạt thóc sau thu hoạch, đảm bảo chất lượng của thóc không bị giảm, giữ được hàm lượng các chất dinh dưỡng và giá trị thương phẩm cũng như đáp ứng yêu cầu sức khỏe cho người và vật nuôi, chúng tôi xin giới thiệu các kỹ thuật cơ bản để bảo quản lúa cho phù hợp với điều kiện của hộ gia đình mình.

Đối với vụ Đông xuân: Dọn sạch cỏ. Trục đánh bùn và san bằng mặt ruộng bằng máy cày bánh lồng có trang kèm theo. Đối với vụ Hè thu: Cày đất bằng máy với độ sâu từ 15-20 cm.

Phối hợp nhiều biện pháp cùng 1 lúc: Thời vụ tập trung, vệ sinh đồng ruộng, đặt bẫy, đào hang, bỏ khí đá vào hang, bơm nước vào hang, dùng chó săn bắt.