Bền vững nhờ nuôi cá dìa kết hợp tôm sú

Đối tượng nuôi đa dạng
Ông Châu Ngọc Phi, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông, lâm, ngư Thừa Thiên – Huế cho biết, sau những vụ tôm thất thu vì dịch bệnh, người dân đã chuyển sang nuôi kết hợp cá dìa, dù doanh thu không cao so với chuyên tôm.
Trong tỉnh hiện có hơn 90% diện tích nuôi tôm sú được chuyển sang nuôi kết hợp tôm sú và cá dìa.
Nhờ đặc tính ăn tạp, cá dìa tận dụng tốt nguồn rong, tảo và một phần thức ăn thừa cùng mùn bã hữu cơ, giúp môi trường nước nuôi sạch hơn, giảm thiểu dịch bệnh.
Với giống lớn, mật độ thả ghép thưa (0,5 – 1 con/m2) sau 4 – 5 tháng nuôi cùng tôm, cá dìa có thể cho thu hoạch 0,8 – 1 tấn/ha, tỷ lệ sống 60% trở lên, lợi nhuận ước đạt 70 – 80 triệu đồng/ha.
Quan trọng hơn cả, khi nuôi ghép với tôm sú, tôm vẫn phát triển tốt, ít dịch bệnh, giảm được chi phí thuốc và hóa chất trong quá trình nuôi.
Cá dìa còn là đối tượng nuôi chính trong ao nuôi tôm bị dịch bệnh; vừa mang lại hiệu quả kinh tế vừa giúp tiêu diệt mầm bệnh tồn lưu trong ao tôm.
Với mật độ thả 2 – 3 con/m2, sử dụng thức ăn tự chế hoặc cám công nghiệp, sau 10 – 12 tháng nuôi, cá có thể đạt trọng lượng 0,6 – 1 kg/con, tỷ lệ sống cao.
Anh Nguyễn Văn Dưỡng (thôn Triệu Thôn, xã Phú An, huyện Phú Vang) là một điển hình.
Nắm được nhu cầu thị trường, anh mạnh dạn đầu tư hơn 5.000 m2 ao đất để nuôi cá dìa kết hợp tôm sú.
Sau 3 tháng nuôi, anh thu được 312 kg cá dìa thịt, 150 kg tôm sú, 100 kg cua và tôm đất.
Cá dìa trọng lượng bình quân 250 g/con, tỷ lệ sống trên 50%, trừ chi phí còn lãi hơn 8 triệu đồng.
Nhân rộng mô hình
Theo anh Nguyễn Văn Dưỡng, cá dìa ăn thức ăn tự nhiên nên chi phí thức ăn thấp.
Tuy nhiên, cần chọn con giống sạch, có chế độ chăm sóc tốt, đề phòng các bệnh, chủ động theo dõi các yếu tố môi trường, vì cá dìa khá nhạy cảm với biến đổi thời tiết.
Ông Châu Ngọc Phi cho biết: Thời gian tới, tỉnh vẫn tiếp tục khuyến khích người dân nhân rộng mô hình; nhưng vẫn còn nhiều khó khăn (nguồn giống, thị trường tiêu thụ, giá cả…).
Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Đại học Huế, Đại học Nha Trang, Đại học Cần Thơ đã thử nghiệm sản xuất giống cá dìa nhân tạo thành công, nhưng số lượng con giống còn hạn chế.
Do vậy, nguồn giống cá dìa vẫn chủ yếu từ tự nhiên, hằng năm vào tháng 6 – 7 dương lịch, hoặc tháng 9 – 10, tập trung nhiều ở các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Khánh Hòa, Bình Thuận, giá bán 3 – 4 nghìn đồng/con, kích cỡ 3 – 4 cm.
Tỉnh đã triển khai mua cá giống về ương nuôi, đáp ứng một phần nhu cầu cho người nuôi.
Bên cạnh đó, thị trường tiêu thụ cá dìa vẫn là nội địa nên giá cả bấp bênh, người nuôi chưa dám đầu tư mạnh.
Cá dìa (Siganus gustatus) còn được gọi là cá nâu hay tảo ngư.
Da trơn, màu nâu xám, thân dẹt, vây sắc.
Cá trưởng thành dài 25 – 30 cm, trọng lượng 1 – 2 kg.
Ở nước ta, cá dìa có ở hầu hết các tỉnh ven biển, nhiều nhất tại vùng biển Quảng Thái (Thừa Thiên – Huế), vùng hạ lưu sông Thu Bồn và các bãi bồi thuộc tỉnh Quảng Nam, vùng hạ lưu sông Hiếu và sông Bến Hải (Quảng Trị)…
Có thể bạn quan tâm

Vụ nuôi tôm sú 2006 tại hai xã Xuân Vinh, xuân Hòa huyện Xuân Trường được kỳ vọng rất nhiều, nó cũng là nỗi lo canh cánh của những người dân một nắng hai sương nơi đây. Rồi đột nhiên tôm chết, chỉ trong khoảng 1 tháng (từ cuối tháng 4 đến cuối tháng 5), tỷ lệ số lượng ao nuôi tôm bị chết lên tới 90-95%.

Cá dìa là một đặc sản của Thừa Thiên Huế, không chỉ người dân Huế mà cả khách du lịch đều biết đến giá trị thương phẩm của loài này. Nắm bắt nhu cầu thị trường, đồng thời được sự vận động của các cán bộ Trung tâm Khuyến ngư tỉnh, anh Nguyễn Văn Dưỡng ở thôn Triệu Thôn, xã Phú An, huyện Phú Vang đã mạnh dạn đầu tư hơn 5000 m2 ao đất của mình để nuôi cá dìa kết hợp với nuôi tôm sú.

Chọn tôm giống bằng cách gây sốc (stress test) là một phương pháp chọn tôm rất hiệu quả và đang được áp dụng rộng rãi cho các hộ nuôi tôm. Sau khi chọn được lô giống tốt bằng cảm quang, ta nên tiến hành gây sốc cho tôm để kiểm tra khả năng chịu đựng của tôm. Tôm có khả năng chịu đựng kém khi sốc thường là tôm bị nhiễm bệnh.

Có được phương pháp kiểm tra. Đánh giá chất lượng giống tốt là một việc làm có ý nghĩa hết sức quan trọng trong nghiên cứu cũng như trong thực tiễn sản xuất. Bởi vì chất lượng giống có ảnh hưởng rất lớn đến công nghiệp nuôi tôm trên toàn thế giới.

Bệnh mềm vỏ kinh niên là bệnh thường xảy ra trong các ao nuôi tôm thương phẩm. Biểu hiện của bệnh là sau khi lột xác, vỏ tôm không cứng lại được, vỏ thường bị nhăn nheo, dễ rách nát nên dễ bị cảm nhiễm của các tác nhân gây bệnh, tôm có vỏ mềm yếu, vùi mình dạt bờ. Có nhiều nguyên nhân gây ra hiện tượng mềm vỏ của tôm.