Bất Ổn Nuôi Tôm Công Nghiệp Ngoài Quy Hoạch
Lợi nhuận quá lớn từ mô hình nuôi tôm công nghiệp cuốn hút nhiều nhà nông Cà Mau gom hết vốn liếng thực hiện cho bằng được. Thành công đã có, thất bại cũng không ít, nhưng đằng sau chuyện “tự phát” ấy còn khá nhiều bất ổn…
* Bỏ “quảng canh” nuôi công nghiệp
Chúng tôi về Tân Lộc Đông - xã nuôi tôm sú đầu tiên của vùng ngọt hóa huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau. Tới địa bàn ấp 4 rồi qua ấp 6, tiếng máy dầu ình ịch vang đều khắp xóm. Lê Văn Hồng - cán bộ xã đi cùng nói, đó là động cơ sử dụng nhiên liệu để hộ nuôi công nghiệp chạy quạt nước tạo ô xy cho đầm tôm. Nhiều hộ bỗng giàu lên cũng nhờ nuôi thứ ấy.
Chúng tôi dừng xe, men theo bờ vuông tôm quảng canh một đoạn chừng nửa cây số tới được đồng tôm của ông Lý Văn Khen - một trong những người nuôi đầu tiên của ấp 6 phất lên nhờ tôm công nghiệp. Tiếp chuyện với chúng tôi trong căn chòi nhỏ để giữ đồng tôm, ông Khen cho hay hồi trước nuôi tôm theo kiểu quảng canh truyền thống, thất nhiều hơn trúng nên gia đình chỉ tạm đủ ăn. Đi nhiều vùng chuyên nuôi tôm công nghiệp ở Đầm Dơi, Cái Nước thấy bà con nuôi lời quá nên mang hết tiền để dành, mượn thêm tiền của người thân đầu tư nuôi công nghiệp giữa năm 2013 cho tới nay.
Vụ đầu ông Khen nuôi 1 ao (2.800 m2), tổng thu được 5,1 tấn tôm thẻ chân trắng, bán được hơn 800 triệu đồng, lời gần 400 triệu đồng. Có tiền “rủng rỉnh” trong túi, ông Khen nới rộng ao nuôi từ 2.800 lên 3.000m2 ở vụ này để thả 200.000 con tôm thẻ. Đến nay, tôm được hơn 2,5 tháng, trọng lượng khoảng 60 con/kg. Nếu không có gì trở ngại, ông Khen tính đến thời điểm thu hoạch ước không dưới 7 tấn. Với giá tôm ổn định như hiện nay, ông Khen tính nhẩm tổng thu hơn 1 tỉ đồng, lời thấp lắm cũng hơn nửa tỉ đồng.
Xung quanh ao tôm thẻ sắp thu hoạch của ông Khen, chúng tôi còn thấy có ít nhất 4 đầm nuôi công nghiệp sắp hoàn thiện, hai đầm khác đang được chủ hộ xử lý nền đáy ao bằng vôi bột. Xa hơn một chút, ông Khen cho hay là khu đất dùng làm ao lọc nước và tương lai dài hơi sẽ thành những đầm tôm công nghiệp nếu nuôi thành công. Cách khu nuôi của ông Khen chưa đầy 2 cây số là đồng tôm của hộ ông Lê Văn Hải, ông Lý Thanh Trường và của hàng chục hộ ở địa bàn ấp 6 và ấp 7 của xã Tân Lộc Đông. Các hộ ấy thấy ông Khen nuôi thành công nên bắt chước, hy vọng cũng gặp may để đổi đời.
* “Canh bạc” nuôi tự phát
Trong năm 2014, diện tích nuôi tôm công nghiệp ở Cà Mau tăng lên gần 8.000 ha, nhưng phần lớn hộ nuôi tự phát ngoài vùng quy hoạch. Ngọc Hiển là vùng rừng, đất xốp, mới thí điểm một vài hộ nuôi tôm công nghiệp nhưng diện tích tự phát trong năm hiện trên 30ha. Tại huyện Phú Tân, quy hoạch giai đoạn 2010 - 2015 chỉ 827 ha, nhưng đến nay diện tích nuôi tôm công nghiệp gần 2.000ha. Số ngoài quy hoạch hơn 1.000 ha ấy là tự phát.
Trước tình thế ấy, chính quyền buộc phải rà soát, bổ sung vào quy hoạch giai đoạn 2014 - 2015 là 3.000 ha. Trưởng Phòng NN&PTNT huyện Phú Tân - Nguyễn Văn Den cho biết, hộ nuôi tự phát ngoài vùng quy hoạch khiến hạ tầng vùng nuôi không theo kịp, tiềm ẩn rủi ro cao, đặc biệt là vấn đề dịch bệnh.
Còn tại vùng chưa được quy hoạch nuôi tôm công nghiệp như huyện Thới Bình, Phòng NN&PTNT huyện rà soát đến nay trên địa bàn đã có trên 80ha nuôi công nghiệp tự phát. Riêng xã Tân Lộc Đông có gần 20 ha. “Với tiến độ thuê cơ giới múc đầm tôm như hiện nay thì diện tích nuôi tôm công nghiệp tự phát tăng lên hơn gấp đôi so với hiện tại” - ông Trần Chí Cường, Chủ tịch UBND xã Tân Lộc Đông, cho biết.
Ông Cường bày tỏ lo lắng, chuyện nuôi tự phát tồn tại nhiều bất ổn, khó cả cho chính quyền và cả hộ nuôi. Do nằm ngoài vùng quy hoạch nuôi tôm công nghiệp nên hộ nuôi mô hình ấy không được hỗ trợ về kỹ thuật, vốn, hỗ trợ hóa chất xử lý môi trường khi bị dịch bệnh và cả đầu tư hạ tầng vùng nuôi, đặc biệt là về thủy lợi và điện ba pha.
Tuy vùng đất nhiễm phèn nhưng tôm công nghiệp phát triển tốt, hộ nuôi đa phần thành công. Tới đây, chỉ mong cấp trên quy hoạch cho xã một vùng nuôi để chính quyền tiện quản lý và người nuôi được hỗ trợ, hưởng lợi từ các chính sách liên quan. Chứ như hiện tại thì nan giải lắm, người nuôi bơm nước thải ô nhiễm ra kênh rạch, gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến nhiều hộ nuôi tôm sú quảng canh trong vùng và cả vùng lân cận – ông Cường băn khoăn.
Về chuyện nuôi tôm công nghiệp, ông Khen cho biết, do nuôi tự phát, chưa nắm vững kỹ thuật nên ông phải nhờ bên cung ứng thuốc, thức ăn hỗ trợ kỹ sư tư vấn, tốn thêm khoản tiền không nhỏ. “Ở đây chưa có nguồn điện ba pha, điện chạy quạt oxy chập chờn nên tôi mua luôn bình điện hết 170 triệu đồng. Đó là chưa kể mỗi tháng phải trả vài triệu đồng tiền điện, tới đây chắc hơn chục triệu mỗi tháng vì tôi đang mở rộng vùng nuôi” – ông Khen nói.
Chia sẻ với những trăn trở của người dân địa phương, ông Nguyễn Hoàng Lâm, Trưởng phòng NN&PTNT huyện Thới Bình cho biết, lãnh đạo huyện đã làm kế hoạch trình lên tỉnh xin quy hoạch vùng nuôi tôm công nghiệp ở những vùng hội đủ “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, nhưng còn thiếu tính pháp lý.
Tỉnh xác định từ nay đến năm 2020 chưa thể khép kín được vùng ngọt hóa Thới Bình thì cũng mong tạo điều kiện giúp bà con trên địa bàn có một nơi để nuôi tôm công nghiệp tập trung, chứ cứ để bà con tự phát như hiện tại thì “căng”, không khéo tái diễn giống chuyện phá mía nuôi tôm.
Nhằm tạo bước đột phá về sản lượng và chất lượng cho con tôm Cà Mau đến năm 2015, tỉnh đã phê duyệt 2 vùng nuôi tôm công nghiệp tập trung quy mô gần 2.000ha thuộc xã Hòa Tân (TP Cà Mau) và xã Tân Trung (huyện Ðầm Dơi). Sau khoảng 4 năm kể từ ngày được phê duyệt, việc thực hiện vùng nuôi quy hoạch chưa có nhiều chuyển biến.
Vùng quy hoạch nuôi công nghiệp tập trung đạt xã Tân Trung, địa phương cho hay người dân khu vực được quy hoạch đồng tình cao nhưng nhà đầu tư (Công ty Phú Cường) thuê đất với giá rẻ, lại thanh toán bằng hình thức trả dần nên người dân chưa đồng thuận.
Còn vùng nuôi tôm công nghiệp tập trung ở xã Hòa Tân, theo quy hoạch nguồn vốn để phát triển cụm nuôi tôm công nghiệp này là 1.564 tỉ đồng (vốn của dân 1.512 tỉ đồng, vốn từ ngân sách Nhà nước 52 tỉ đồng). Hiện tại, dự án đã được xây dựng xong, thiết kế cũng đã hoàn chỉnh nhưng khi khảo sát thực địa thì nhân dân đồng thuận không cao do nhiều nguyên nhân. Hệ lụy, dự án bị “tạm ngừng” vô thời hạn.
Mới thấy, nuôi tôm công nghiệp trong vùng quy hoạch được tạo điều kiện hỗ trợ về nhiều mặt vốn đã khó, thì những nông hộ nuôi ngoài vùng quy hoạch, phải tự bươn chải mọi thứ sẽ còn nhiêu khê đến mức nào.
Một trong những rào cản lớn hiện tại vẫn là hạ tầng vùng nuôi và việc thỏa thuận lợi nhuận giữa doanh nghiệp và người dân. Kêu gọi được doanh nghiệp thì lại không có quỹ đất sạch, còn người dân có đất không muốn cho thuê với giá rẻ, nhưng lại muốn được đầu tư về hạ tầng để phát triển vùng nuôi. Chính những bất đồng về lợi ích ấy mà đề án phát triển cụm nuôi tôm công nghiệp tập trung ở Cà Mau bị “chết yểu” - ông Châu Công Bằng, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Cà Mau cho biết.
Có thể bạn quan tâm
Trong niên vụ tới, Cty đã phát triển được vùng nguyên liệu lên 13.000 ha tăng 500 ha so với vụ trước, trong đó tại Khánh Hòa có 8.800 ha, Đăk Lăk có 4.200 ha, sản lượng mía ước đạt 680.000 tấn. Diện tích mía Cty đầu tư là 10.800 ha với tổng số tiền đầu tư 223 tỷ đồng, giá trị đầu tư trồng mới 30 triệu đồng/ha và mía lưu gốc là 20 triệu đồng/ha.
Cụ thể, đối với cá sấu thịt bán nguyên con để lấy da loại 7-15kg/con chỉ còn 230.000 đ/kg, giảm 50.000 -70.000 đ/kg; cá sấu con loại 1 tháng tuổi còn 200.000 đ/con, giảm 100.000 -120.000 đ/con. Còn đối với thị trường trăn lấy da XK, giá giảm từ 200.000 -220.000 đ/con, hiện trăn thịt lấy da, loại 1 năm tuổi giá giảm xuống còn 280.000 đ/kg; trăn giống 1 tuần tuổi còn 260.000 đ/con, giảm 100.000 đ.
Nhằm giúp người dân thêm điều kiện thoát nghèo, đầu năm 2012, từ nguồn vốn Dự án Giảm nghèo các tỉnh miền núi phía Bắc giai đoạn II, Ban Quản lý Dự án Giảm nghèo huyện Mường Chà đã triển khai dự án nuôi dê núi tại 8 xã: Sa Lông, Mường Mươn, Ma Thì Hồ, Sá Tổng, Pa Ham, Nậm Nèn, Huổi Mí và Hừa Ngài. Tham gia dự án có 493 hộ dân.
Vài năm trở lại đây, nhờ mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi, sản xuất, tận dụng triệt để lợi thế về điều kiện tự nhiên như: khí hậu, thổ nhưỡng... đã giúp nhân dân Chiềng Sơ, huyện Điện Biên Đông từng bước thoát nghèo. Hiện nay, tỷ lệ hộ nghèo của xã còn 58%, giảm 4,5% so với năm 2012.
“Không chỉ là trưởng bản gương mẫu, đi đầu trong các phong trào của thôn, bản, giúp đỡ bà con từng bước xóa đói giảm nghèo, chị Lò Thị Việt ở bản Ho Luông 1 còn là điển hình phát triển kinh tế, vươn lên làm giàu từ thất bại”, đó là chia sẻ của ông Khoàng Văn Tiến, Chủ tịch UBND xã Lay Nưa, T.X Mường Lay khi nói về nữ trưởng bản Lò Thị Việt. Cách đây 5 năm, cuộc sống của gia đình chị Việt còn nhiều thiếu thốn.