Xuất khẩu gạo tiếp tục giảm cả lượng và giá

Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT): Giá gạo xuất khẩu bình quân nửa đầu năm đạt 431,16 USD/tấn, giảm 4,64% so với cùng kỳ năm 2014.
Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm với hơn 38% thị phần. Tuy nhiên, xuất khẩu gạo sang thị trường Trung Quốc có xu hướng giảm so với cùng kỳ năm trước với mức giảm lần lượt là hơn 9% về khối lượng và 13,25% về giá trị.
Đáng chú ý nhất là thị trường Malaysia có sự tăng trưởng đột biến trong 6 tháng đầu năm, tăng gấp 2,3 lần về lượng và gấp 2 lần về giá trị, vươn lên vị trí thứ 3 về thị trường nhập khẩu gạo của Việt Nam, chiếm 8,36% thị phần.
Tại thị trường trong nước, nhu cầu đối với gạo Việt Nam vẫn ở mức thấp, Trung Quốc chỉ thu mua với khối lượng nhỏ. Lúa hè thu sớm mới thu hoạch không thu hút được thương lái do chất lượng thấp, không đảm bảo để chế biến gạo xuất khẩu.
Diễn biến giá lúa tại các tỉnh ĐBSCL trong 20 ngày đầu tháng 7 như sau: Đối với lúa vụ hè thu, lúa ướt chủng loại IR50404 tại An Giang giảm 100 đ/kg, từ 4.100 đ/kg xuống còn 4.000 đ/kg, lúa khô cùng chủng loại Vĩnh Long giảm từ 4.800 đ/kg xuống còn 4.700 đ/kg. Đối với lúa đông xuân, lúa chất lượng cao tại Bạc Liêu ổn định ở mức 5.200 – 5.300 đ/kg (lúa khô).
Tại Kiên 14 Giang, lúa tẻ thường có thời điểm tăng lên 5.300 đ/kg sau đó giảm trở lại mức 5.200 đ/kg như đầu tháng; trong khi lúa dài tăng 200 đ/kg, từ 5.700 đ/kg lên 5.900 đ/kg (lúa khô).
Phát biểu tại Hội nghị đánh giá việc thực hiện tái cơ cấu ngành trồng trọt mới đây, ông Ma Quang Trung, Cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT) cho biết: Thời gian qua, Đề án Tái cơ cấu ngành lúa gạo đến 2020 và tầm nhìn đến 2030 đã được ráo riết triển khai.
Theo đó, ngành lúa gạo đã chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa, áp dụng nhiều biện pháp kỹ thuật tiên tiến, mở rộng thị trường..., tuy nhiên vẫn còn nhiều tồn tại cần khắc phục.
Điển hình là tỷ lệ gạo có chất lượng cao còn thấp đặc biệt là vùng ĐBSCL, giá thành sản xuất tương đối cao ( trên 4.000đ/kg) nên sản phẩm khó cạnh trạnh trên thị trường. Nguyên nhân là do việc sử dụng giống chất lượng cao còn ít, chi phí giống, vật tư phân bón, thuốc bảo vệ thực vật cao.
Ngoài ra, tỷ lệ diện tích thực hiện liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị đạt thấp, thị trường tiêu thụ lúa gạo không ổn định, thu nhập của người sản xuất chưa cao, ngành hàng sản xuất lúa gạo chưa bền vững...
Có thể bạn quan tâm

Sau 6 tháng thả nuôi, hàu phát triển rất nhanh, có khả năng thích nghi và phát triển tốt. Kết quả, tỷ lệ sống đạt trên 65%, trọng lượng bình quân đạt 12 con/kg, sản lượng hàu đạt 677 kg, với giá bán 32.000 đ/kg, tổng thu trên 21 triệu đồng, trừ chi phí khoảng 14 triệu, lãi trên 7 triệu (nếu quy trên héc ta thì lãi 1,4 tỷ đ/ha).

“1 phải, 5 giảm”- mô hình phát triển lúa bền vững, không chỉ mang lại hiệu quả thiết thực cho người sản xuất, mà còn góp phần bảo vệ môi trường nên được nông dân huyện Thoại Sơn áp dụng trên diện tích 9.300 héc-ta.

Tuy nhiên sản lượng khai thác hàng năm tăng không đáng kể, thu nhập còn bấp bênh bởi sự đầu tư về trang thiết bị còn hạn chế, ngư dân chưa đủ điều kiện lắp đặt các loại máy móc hiện đại.

Theo ghi nhận của chúng tôi, hơn 10 ngày qua đi đâu trong xã Kế Thành (Kế Sách – Sóc Trăng) cũng nghe nhà vườn bàn tán vui nhộn khi bưởi trúng mùa, lại trúng giá.

Hội nghị ngành hàng cà phê tổ chức cuối tuần qua tại TP.HCM đã “nóng” hừng hực khi vô số những khó khăn, bất cập đang gây bất ổn nghiêm trọng ngành hàng này được các DN nêu ra.