Xây dựng thương hiệu cho gạo Việt
Theo đề án này, đến năm 2020, gạo Việt Nam sẽ được quảng bá rộng rãi đến ít nhất 20 thị trường xuất khẩu; đồng thời thương hiệu gạo quốc gia được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ dưới hình thức nhãn hiệu chứng nhận tại Việt Nam và ít nhất 50 quốc gia....
Đối chiếu với mục tiêu đề án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, thì thời gian không còn nhiều. Tuy đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu gạo, nhưng ở thời điểm hiện tại, thương hiệu của gạo Việt Nam vẫn là một khoảng trống. Điều này khiến gạo Việt Nam chưa được đánh giá cao so với gạo của Thái Lan, Ấn Độ, Pakistan…; nó cũng lý giải giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đang có xu hướng thấp dần.
Thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng cho thấy, gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế giá luôn thấp hơn gạo Thái Lan từ 50 đến 100 USD/tấn (cùng một chủng loại).
Nhìn sang các nước trong khu vực, Thái Lan đã có trên 10 thương hiệu gạo được giới thiệu ở thị trường quốc tế, Campuchia cũng có 8 thương hiệu, còn Việt Nam chưa có nổi một thương hiệu để quảng bá.
Theo một số chuyên gia nông nghiệp, tình hình sản xuất lúa gạo của Việt Nam trong những năm gần đây cho thấy, chúng ta chưa có chương trình và nỗ lực thực sự để xây dựng và phổ biến thương hiệu; thiếu sự phối hợp giữa các nhà khoa học, doanh nghiệp, thương lái và nông dân để tạo ra một thương hiệu gạo chất lượng cao...
Vậy tại sao Việt Nam chưa có thương hiệu đặc trưng cho những loại gạo tốt, đã có thương hiệu trong nước để quảng bá ra thế giới? Có rất nhiều nguyên nhân, từ việc phần lớn doanh nghiệp xuất khẩu chỉ mua gạo của thương lái chứ không có vùng nguyên liệu chủ động sản xuất… đến việc thương lái đánh đồng các loại gạo khiến nông dân dễ dãi trong việc lựa chọn giống tốt để sản xuất.
Bên cạnh đó, thương lái thường thu gom các giống lúa, sau đó trộn lẫn chế biến, nên khi xuất khẩu không có một giống nguyên chủng nào để đăng ký thương hiệu. Hơn nữa, thương lái có khuynh hướng mua lúa không cần phân biệt giữa lúa có chất lượng cao hay thấp và các nhà xuất khẩu cũng chỉ quan tâm nhiều đến số lượng hơn là chất lượng.
Quy mô sản xuất nhỏ, ruộng đồng manh mún, thu hoạch và bảo quản sau thu hoạch còn nhiều hạn chế. Một số nơi sản xuất tự phát, không đảm bảo kỹ thuật canh tác dẫn đến chất lượng kém.
Đồng bằng sông Cửu Long đã triển khai kế hoạch 1 triệu ha lúa chất lượng cao, nhưng vẫn còn bị giới hạn, chủ yếu do giá mua lúa chất lượng cao chưa phân biệt với chất lượng thấp và thiếu các giống lúa chất lượng tốt năng suất cao mà nông dân và thị trường đòi hỏi.
Để có thương hiệu cho gạo Việt Nam sẽ khó thành công nếu không có chính sách đồng bộ, sự liên kết giữa người làm khoa học, người nông dân và hệ thống chế biến, tiêu thụ. Vấn đề đặt ra là cần có một chương trình đầu tư bài bản, bền bỉ, lâu dài, tuân thủ các yêu cầu về chất lượng gạo xuất khẩu theo chuẩn quốc tế.
Mặt khác, xây dựng thương hiệu cũng cần đi đôi với việc bảo vệ và phổ biến thương hiệu. Muốn có thương hiệu bền vững, có uy tín, trước hết người sản xuất phải có ý thức về thương hiệu, có hệ thống pháp luật và cơ quan bảo vệ thương hiệu, quảng bá thương hiệu. Nhắc lại để thấy, những năm đầu của thế kỷ trước, thương hiệu gạo Cà Đung Gò Công của Việt Nam từng có mặt ở thị trường châu Âu.
Tuy nhiên, chỉ sau vài thập niên, loại gạo này không còn xuất hiện ở châu Âu nữa do chất lượng không đạt chuẩn quốc tế.
Có lẽ, đây là bài học không chỉ riêng với lúa gạo Việt Nam.
Có thể bạn quan tâm
Đến thời điểm này, dịch cúm A/H5N1 đã cơ bản được khống chế, không tiếp tục bùng phát và lây lan ra diện rộng. Tuy nhiên, tin tốt này cũng không khiến người chăn nuôi phấn khởi khi mà gia cầm và các sản phẩm gia cầm đang rơi vào cảnh “đại hạ giá”…
Theo số liệu từ Chi cục Kiểm lâm, hiện nay trên địa bàn có hàng ngàn hộ tham gia gây nuôi động vật hoang dã (ĐVHD) như rắn, nhím, hươu, lợn rừng...
Theo khảo sát của ngành nông nghiệp và PTNT, hiện nay cả tỉnh có khoảng 4.000/36.000 ha gieo cấy là ruộng trũng, nhiều địa phương thường gọi là chiêm đầm chỉ có khả năng gieo cấy lúa chiêm xuân, vụ mùa kết hợp thả cá vụ, hoặc bỏ hoang. Diện tích tập trung nhiều ở các huyện vùng đất giữa như Thanh Thủy, Tam Nông, Lâm Thao, Cẩm Khê, Thanh Ba, Hạ Hòa...
Trong những năm qua, phong trào trồng cây gây rừng trên địa bàn tỉnh ta phát triển mạnh góp phần phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, bảo vệ môi trường sinh thái, xóa đói giảm nghèo và nâng cao thu nhập cho người dân. Hiện nay trên địa bàn tỉnh có hơn 118 nghìn ha rừng trồng và hơn 64 nghìn ha rừng tự nhiên.
Tại các vùng bãi bồi ven sông ở Điện Bàn, Duy Xuyên, Đại Lộc, mùa thu hoạch ớt vụ đông xuân thường bắt đầu từ giữa tháng 3. Riêng năm nay, vụ thu hoạch ớt lại bắt đầu từ giữa cuối tháng 2.