Thuần hóa rau rừng cho thu nhập khá

Hiện nhiều người dân ở huyện Bù Đăng, Bình Phước tăng thu nhập đáng kể nhờ trồng giống rau đặc sản này.
Trồng xen điều
Đến thăm vườn điều trồng xen ca cao của gia đình ông Điểu Men ở thôn Dân Lập, xã Thọ Sơn, chúng tôi không khỏi bất ngờ khi thấy trong vườn nhà ông có những hàng rau nhíp xanh mướt.
Sáng kiến trồng rau nhíp rừng xen trong vườn điều, ca cao của người dân tộc thiểu số ở Bù Đăng tăng thêm thu nhập đáng kể.
Ông Điểu Men kể, đời sống của đồng bào dân tộc luôn gắn với rừng từ bao đời nay, thế nên trong bữa ăn hàng ngày không thể thiếu các loại rau rừng.
Hồi xưa, rừng còn nhiều, rau rừng đủ thứ, mỗi ngày chỉ cần vào rừng tiếng đồng hồ là có ngay mớ rau nhíp, mấy củ măng mang về nấu ăn. Nhưng càng ngày rừng càng ít, cây cối cũng chẳng còn như xưa. Rau rừng cũng vậy mà hiếm dần.
Từ đó, ông nghĩ cách mang rau rừng về vườn nhà trồng. Vừa để duy trì những loài rau rừng đã gắn bó bao đời nay, vừa để có cái ăn. Và không lâu sau đó, dưới tán điều trong vườn nhà ông, bắt đầu có thêm những hàng rau nhíp.
“Rau nhíp là loài vô cùng dễ sống và phát triển rất nhanh, lá tươi tốt quanh năm. Rau cây ưa bóng râm, thích hợp trồng dưới tán hầu hết các loại cây công nghiệp như điều, ca cao, tiêu…", ông Điểu Men nói.
Một hộ khác ở xã Minh Hưng là gia đình anh Điểu Minh, có hơn 1 ha điều trồng xen rau nhíp.
Anh Điểu Minh cho biết, địa hình vườn điều và nhà anh khá dốc, mùa mưa đất thường bị xói mòn. Từ khi trồng xen rau nhíp vào giữa các hàng điều, đất vườn nhà đã không còn lo bị trôi hay xói mòn nữa.
Đất trong vườn luôn giữ được độ ẩm nhất định, lượng phân bón cho cây cũng giảm đi. Bên cạnh đó, rau nhíp còn giúp gia đình anh có thu nhập, có rau ăn hàng ngày.
“Bữa ăn của chúng tôi không thể thiếu các loại lá, cà, rau rừng...
Hàng ngày, ngoài chăm sóc vườn, một vài người trong gia đình phải lên rừng hái rau, củ, măng rừng, lá nhíp, cà dại về nấu ăn. Kể cả những loại lá, rễ cây để làm rượu cần và một số cây cỏ chữa bệnh cũng phải tìm kiếm.
Việc này mất nhiều thời gian, hơn nữa những loại cây đó cũng dần khan hiếm. Tôi nảy ra ý định mang rừng về nhà”, anh Đan kể về ý tưởng ban đầu của mình.
Nhiều chợ ở Bình Phước bày bán đặc sản rau nhíp.
"Cũng từ việc điều mất giá, thất mùa, rồi nhu cầu thức ăn hàng ngày, nên bà con mới nảy ra sáng kiến mang rau nhíp về trồng. Lá bép sinh trưởng và phát triển trong môi trường tự nhiên, không cần bón phân, phun thuốc trừ sâu nên hoàn toàn không có các tác nhân gây ngộ độc như dư lượng nitrate, kim loại nặng…
Không chỉ ngon, đủ calo, an toàn, lá bép còn chứa các hoạt chất sinh học tự nhiên cần cho sức khỏe, kéo dài tuổi thọ. Nhờ trồng thêm rau nhíp mà thu nhập của bà con cũng tăng lên, giảm phần nào khó khăn”,
ông Nguyễn Trường Sơn, Phó Chủ tịch Hội Nông dân xã Thọ Sơn.
Bà Phạm Thị Lộc, thôn Sơn Lập, xã Thọ Sơn cũng trồng trong vườn hơn 1 sào rau nhíp cho biết:
"Cây điều mấy năm gần đây hay thất mùa do thời tiết, rồi giá cả cũng bấp bênh. Trong khi đó, rau nhíp ngày càng được nhiều người mua về ăn.
Mà trồng cây này chẳng tốn chi phí bao nhiêu, chẳng cần chăm sóc kỹ, không bón phân, không phun thuốc, lâu lâu tưới cho nó một lần, vậy là xong. Một sào rau nhíp này, mỗi tháng gia đình có thêm triệu bạc, lại tiết kiệm được khoản tiền mua rau".
Thu nhập khá
Mô hình trồng xen rau nhíp đem lại rất nhiều lợi ích nên ngày càng được bà con hưởng ứng. Theo thống kê của Trạm Khuyến nông huyện Bù Đăng, toàn huyện đã có hơn 200 ha cây điều, ca cao được bà con trồng xen rau nhíp, trong đó xã Minh Hưng nhiều nhất, với khoảng 110 ha.
“Rau nhíp đang được ưa chuộng, không chỉ người dân tộc biết ăn mà các nhà hàng, quán ăn cũng tìm mua rất nhiều. Mấy người quen của gia đình ở dưới thành phố lâu lâu lại gọi lên đặt mua cả chục ký, gửi theo xe khách về dưới.
Nhà tôi ai cũng thích rau nhíp, ngày ăn hai bữa mà không chán. Hiện gia đình tôi có 3 sào vườn, trồng rau nhíp xen trong vườn điều, hàng ngày ngoài việc cung cấp thực phẩm cho gia đình, tôi còn thu được 10 kg lá non. Bây giờ rau nhíp có giá cao nhất trong các loại rau.
Vào mùa mưa này, một ký rau nhíp giá từ 40 - 50 ngàn đ/kg, còn mùa khô, giá cao gấp đôi. Mỗi tháng tôi cũng thu đôi ba triệu từ rau nhíp”, ông Điểu Men nói.
Theo anh Nguyễn Văn Giang, cán bộ Trạm Khuyến nông Bù Đăng, mấy năm gần đây, cây điều giá cả lên xuống thất thường cùng với việc năng suất và chất lượng phụ thuộc nhiều vào thời tiết, nên việc áp dụng mô hình SX 2 tầng bằng cách trồng xen cây rau nhíp vào cây điều là rất phù hợp.
Nhờ trồng rau nhíp, nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số có nguồn thu quanh năm, tiết kiệm chi phí đầu tư, nâng cao hiệu quả kinh tế trên cùng một đơn vị diện tích đất. Bà con đi nhổ lá rừng về trồng xen trong vườn, hạn chế việc sử dụng công lao động, hạn chế xói mòn, rửa trôi đất.
Có thể bạn quan tâm

Giải pháp nào để thúc đẩy sản xuất athanol nhiên liệu bền vững? Đó là những nội dung được đem ra bàn thảo tại hội nghị “Xây dựng giải pháp thúc đẩy sản xuất ethanol nhiên liệu bền vững” được Bộ NN&PTNT tổ chức vào sáng 21.10 tại Nhà máy Sản xuất Bio-Ethanol nhiên liệu Dung Quất.

Ông Hoàng Đức Doanh, Chi cục trưởng Chi cục Lâm nghiệp tỉnh Quảng Trị cho biết, bình quân mỗi năm diện tích rừng trồng mới trên địa bàn tỉnh đạt 5.000 ha. Bên cạnh việc đẩy mạnh công tác bảo vệ và trồng mới rừng, tỉnh Quảng Trị đã chú trọng phát triển lâm nghiệp bền vững.

Theo báo cáo của Phòng Nông nghiệp-PTNT huyện, ở Gio Linh (Quảng Trị) hiện có gần 100 trang trại, gia trại ở vùng gò đồi gồm các xã như Gio An, Gio Hoà, Hải Thái, Linh Hải…Đây là những trang trại cao su, lâm nghiệp kết hợp chăn nuôi có thu nhập trên 200 triệu đồng/năm. Điều quan trọng là đã hình thành nên những vùng sản xuất hàng hoá mang tính tập trung nhằm khai thác hết tiềm năng lợi thế vùng gò đồi.

Vùng gò đồi, miền núi phía Tây của huyện Gio Linh (Quảng Trị) có tổng diện tích tự nhiên 34.336 ha, chiếm 78% diện tích của toàn huyện. Với lợi thế đất đai, phần lớn là đồi núi, có đất đỏ ba dan, Feralit, thuận lợi cho việc phát triển vùng chuyên canh cây công nghiệp dài ngày và những mô hình kinh tế vườn rừng, vườn đồi, trang trại mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Xã đã tiến hành khảo sát, thống kê về diện tích đất đai, điều kiện tự nhiên và những khó khăn, thuận lợi, từ đó xây dựng kế hoạch phát triển KT-XH phù hợp với thực tiễn địa phương, đưa ra các chương trình hành động cụ thể để khai thác các tiềm năng, thế mạnh sẵn có ở vùng gò đồi.