Thoát Nghèo Từ Mô Hình Nuôi Dúi Và Nhím
Những năm gần đây, một số hộ dân trên địa bàn xã Hải Giang (huyện Đak Đoa, Gia Lai) đã thuần hóa, nuôi dưỡng thành công nhiều loài động vật sống trong tự nhiên và đem lại hiệu quả khá lạc quan. Trong đó, nuôi dúi và nhím được xem là mô hình mang lại lợi nhuận cao.
Gia đình ông Nguyễn Vũ Hùng (ở thôn 3, xã Hải Giang, huyện Đak Đoa) là một trong những hộ đã nuôi thành công loài dúi. Ông quê ở Nam Định nhưng vào Gia Lai theo chương trình kinh tế mới, cũng như bao người dân khác, ông đầu tư phát triển các cây công nghiệp thế mạnh như cà phê, tiêu, cao su…
Đồng thời, để tăng thêm nguồn thu nhập cho gia đình, ông Hùng đã nuôi thêm các loại vật nuôi như: dê, chồn nhung đen… nhưng hiệu quả không cao. Tình cờ vào năm 2006, khi mua được 1 cặp dúi rừng còn sống, ông đã đem về nuôi thử và nhân giống trong điều kiện nuôi nhốt.
Chuồng trại nuôi dúi được ông Hùng xây dựng khá đơn giản, không chiếm quá nhiều diện tích; một chuồng nuôi có diện tích 2-3 mét, cao 1-1,2 mét, phân thành nhiều ô tùy vào kích thước và trọng lượng của dúi, vì dúi không ưa sáng nên phải đậy kín. Để nuôi khoảng 20 con dúi chỉ cần đầu tư từ 3 triệu đồng đến 4 triệu đồng cho khâu chuồng trại.
Ông Hùng cho biết: Dúi vốn là động vật gặm nhấm nên răng chúng mọc dài liên tục, nếu không mài bớt răng, răng sẽ dài và chúng không ăn uống được, vì vậy, tôi thường phải thả vào ô chuồng dúi vài thân cây bắp để chúng mài răng.
Hơn nữa, khả năng đào hang của dúi rất tốt nên chuồng nuôi phải xây bằng gạch, lát sàn vững chắc để chúng không đào hang đi mất. Dúi đẻ rất dày, 3 tháng/lứa, mỗi lứa 3-4 con, con to có thể lên tới 2 kg. Từ một cặp dúi giống ban đầu, gia đình ông đã nhân lên được thêm 20 con dúi giống.
Vừa qua, gia đình ông đã xuất bán ra thị trường được hơn 50 con dúi trưởng thành, thu về hàng chục triệu đồng, trong khi đó chi phí đầu tư lại không đáng kể.
Ông Nguyễn Văn Hải (thôn 3, xã Hải Giang, huyện Đak Đoa) lại đầu tư gia trại nuôi nhím. Thức ăn cho nhím rất dễ kiếm bởi nhím là động vật ăn tạp, rau củ quả các loại nhím đều ăn tốt. Từ khi nuôi nhím mới đẻ tới khi bắt đầu sinh sản khoảng 1 năm, nhím trưởng thành có thể nặng tới 5-6 kg/con.
Nhím sinh sản khá dày, 4 tháng/lứa, mỗi lứa 2-3 con. Ông Hải chia sẻ: Nuôi nhím đơn giản và lại không tốn nhiều thời gian bởi chuồng trại dễ làm, không tốn nhiều chi phí, một chuồng nuôi chỉ cần diện tích 1-1,5 mét. Hiện tại, trong chuồng nhà tôi lúc nào cũng có từ 10 đôi nhím sinh sản và hơn 15 nhím con. Nếu không tính việc bán nhím giống sinh sản, chỉ bán nhím thịt, với giá 300 ngàn đồng đến 350 ngàn đồng/kg, sau khi trừ chi phí, mỗi năm tôi thu được gần 50 triệu đồng.
Đồng thời, thịt nhím là loại đặc sản, thịt chắc và ngon nên được tiêu thụ mạnh trên thị trường, so với nuôi heo và các loại gia súc khác, nuôi nhím dễ mà hiệu quả kinh tế lại cao.
Trao đổi với P.V, ông Nguyễn Hồng Sinh-Chủ nhiệm Hội Cựu chiến binh sản xuất giỏi xã Hải Giang cho biết: “Mô hình nuôi dúi và nhím của các hội viên mang lại hiệu quả kinh tế khá cao, nhưng chưa được phát triển rộng rãi.
Thời gian tới, chúng tôi sẽ cố gắng phối hợp và nhân rộng những mô hình chăn nuôi như thế này ra cho tất cả các hội viên, góp phần nâng cao giá trị sản xuất của ngành chăn nuôi, hướng tới mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, từng bước nâng cao đời sống cho người dân vì đây là hướng phát triển hứa hẹn nhiều thành công”.
Có thể bạn quan tâm
Khó khăn lớn nhất để nhân rộng mô hình này là sản phẩm VietGAP vẫn được bán với mức giá “cào bằng” ngoài thị trường trong cảnh vàng thau lẫn lộn. Nhưng theo một số chủ trang trại chăn nuôi gà VietGAP, nếu tính toán tốt bài toán chi phí đầu vào thì người chăn nuôi vẫn đạt lợi nhuận khi bán sản phẩm sạch với giá rẻ.
Dự án được Trạm Khuyến nông huyện phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ triển khai từ tháng 5-2014 đến hết tháng 5-2015, tại các xã: Lương Phú, Kha Sơn, Tân Hòa và Bảo Lý với quy mô 1,5ha, bao gồm 11 hộ dân tham gia. Các hộ dân được hỗ trợ 60% giá giống, 30% giá thức ăn công nghiệp và tập huấn khoa học kỹ thuật về biện pháp thâm canh, vệ sinh phòng chống dịch bệnh cho cá.
“Năm 2012, tôi bắt đầu nuôi thỏ quy mô nhỏ ở gia đình. Vượt qua những khó khăn, bỡ ngỡ ban đầu, đến nay tôi nhận thấy đây là mô hình có nhiều ưu điểm như tận dụng được tối đa nguồn thức ăn sẵn có là các loại rau, cỏ dại tại địa phương, ít dịch bệnh, quay vòng vốn nhanh. Bên cạnh đó, chi phí đầu tư cho chăn nuôi thỏ không quá tốn kém.
Vào tháng 1-2014, Báo SGGP đã có bài “Đừng để nông dân chịu cay”, phản ánh việc bà con nông dân ở tỉnh Nghệ An trồng ớt từ nguồn cung cấp giống của một người Trung Quốc. Một số địa phương vẫn âm thầm gieo trồng bất chấp những cảnh báo về dịch bệnh, đầu ra cho sản phẩm… Đến nay, ớt đã vào kỳ thu hoạch, nhưng không như lời hứa sẽ thu mua sản phẩm, thương lái Trung Quốc một đi không trở lại.
Lào Cai có đặc điểm khí hậu, địa hình thích hợp để phát triển nhiều loại cây dược liệu. Những năm gần đây, nhiều gia đình đã trồng cây dược liệu làm hàng hóa, đem lại thu nhập khá và ổn định. Tỉnh có chủ trương không mở rộng diện tích trồng cây dược liệu ồ ạt, mà dựa trên cơ sở phân tích thị trường, tìm đầu ra ổn định cho sản phẩm.