Thêm 2 Giống Lúa Thuần Chất Lượng Cao Cho Gieo Cấy
Xác định giống lúa là một trong những yếu tố quan trọng, quyết định đến năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Sở NN và PTNT luôn chú trọng việc tuyển chọn được các giống lúa mới cho năng suất, chất lượng tốt, phù hợp với điều kiện canh tác, thổ nhưỡng, thời tiết, khí hậu… để bổ sung vào bộ giống gieo cấy, thay thế một số giống đã thoái hoá.
Vụ xuân năm 2013, ngoài việc tuyển chọn 50 giống lúa vào cấy khảo nghiệm, Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư tỉnh đã đưa 2 giống lúa thuần mới TBR225 và DQ11 đã được khảo nghiệm, tuyển chọn từ các vụ trước vào cấy trình diễn tại 2 HTX đại diện cho 2 vùng sinh thái phía nam và phía bắc tỉnh. HTXDVNN Hùng Tiến, xã Giao Tiến (Giao Thuỷ) có khí hậu ven biển, chất đất phù sa có tầng canh tác sâu với chủ yếu là các chân vàn, vàn thấp; nông dân có trình độ thâm canh cao, các giống lúa phát huy được tiềm năng năng suất cũng như khả năng chống chịu sâu bệnh, gió bão.
Tại HTXDVNN Trung Thành, xã Trung Thành (Vụ Bản) với chân đất vàn, vàn cao, thành phần cơ giới nhẹ, tỷ lệ trên 50% cát; tầng canh tác mỏng, đất luân canh nhiều vụ, bị khai thác triệt để nên độ phì kém, nếu cung cấp ít phân bón hoặc bón phân không hợp lý sẽ rất nghèo chất dinh dưỡng; độ pH chua đến ít chua, dung tích hấp thụ kém, chế độ nước tưới khó khăn, không được cung cấp nước phù sa… Trung tâm cũng áp dụng cả 2 phương pháp gieo cấy cho mô hình trình diễn.
Mô hình tại HTXDVNN Hùng Tiến áp dụng phương pháp gieo sạ hàng, diện tích 1,5ha cho giống TBR225 và 1ha cho giống DQ11 với giống đối chứng là BT7, cùng phương pháp canh tác, chăm sóc, bảo vệ thực vật và thời vụ. Mô hình trình diễn tại HTXDVNN Trung Thành diện tích 2ha cho giống TBR225 và 2ha cho giống DQ11 thực hiện gieo mạ dày xúc, đối chứng bằng giống BT7, cùng phương thức canh tác, chăm sóc, bón phân, bảo vệ thực vật và thời gian gieo cấy.
Do thời tiết thuận lợi, vụ xuân năm 2013 là vụ xuân ấm, mặc dù thời gian sinh trưởng ngắn hơn vụ xuân 2012 khoảng 7-10 ngày nhưng năng suất giống TBR225 thực thu của HTXDVNN Hùng Tiến là 92,6 tạ/ha, trong khi giống BT7 năng suất đạt 60,9 tạ/ha; giống DQ11 năng suất đạt 67,4 tạ/ha; cao hơn giống đối chứng 10,6% (tương đương 6,5 tạ/ha). Ông Trần Văn Thành ở đội sản xuất số 8, HTXDVNN Hùng Tiến - người tham gia cấy trình diễn giống lúa TBR225 cho biết: “Lần đầu tiên tôi thấy có giống lúa thuần TBR225 cho năng suất cao hơn cả các giống lúa lai mà chúng tôi đang cấy.
Còn giống lúa DQ11 không những chất lượng cao, gạo tương đương BT7 mà năng suất còn cao hơn 10,6%...”. Thực tế nhiều vụ xuân gần đây các giống lúa lai D.ưu 527, D.ưu 725, TX111, Nhị ưu 838… gieo cấy tại xã Giao Tiến và các xã ven biển Giao Thủy cũng chỉ đạt trên, dưới 80 tạ/ha. Ở xã Trung Thành (Vụ Bản) năng suất 2 giống lúa mới cấy trình diễn đều cao hơn giống lúa đối chứng BT7.
Với giống TBR225 năng suất thực thu là 67,8 tạ/ha, cao hơn giống lúa đối chứng 14,6 tạ/ha (27,4%); còn giống DQ11 năng suất thực thu 63,7 tạ/ha, cao hơn giống lúa đối chứng 10,5 tạ/ha (19,7%). Qua cấy khảo nghiệm và gieo cấy trình diễn cho thấy 2 giống lúa thuần TBR225 và DQ11 không chỉ thích ứng tốt với các chân đất, thổ nhưỡng ở các địa phương mà còn có khả năng chống chịu sâu bệnh tốt và cho năng suất cao hơn giống đối chứng.
Đặc biệt, tỷ lệ nảy mầm của 2 giống lúa thuần này đều đạt trên 90%, độ đồng đều cao, khả năng sinh trưởng, phát triển tốt, cứng cây, đẻ nhánh sớm, gọn, thời gian đẻ nhánh tập trung, số dảnh hữu hiệu cao hơn nhiều so với giống BT7; khả năng kháng và chống chịu tốt với một số loại sâu bệnh hại lúa như bệnh đạo ôn, bạc lá…
Theo đồng chí Đào Viết Tâm, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư tỉnh, giống lúa DQ11 và TBR225 đều là giống cảm ôn, có thể cấy được cả 2 vụ trong năm, thời gian sinh trưởng tương đương giống BT7 nhưng năng suất vượt trội. Với giống DQ11 là giống lúa chất lượng rất phù hợp với chân đất vàn, vàn cao ở các huyện phía bắc tỉnh. Riêng với giống TBR225 là giống lúa năng suất cao, thích ứng với chân đất vàn, vàn thấp. Đây là giống có thể thay thế các giống lúa lai ở các vùng trũng của cả 2 vùng sinh thái phía bắc và phía nam tỉnh…
Từ kết quả khả quan thu được từ việc cấy trình diễn ở vụ xuân, vụ mùa 2013 Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư tỉnh đã phối hợp với Trạm Khuyến nông các huyện và nhiều HTXDVNN ở các huyện phía bắc và phía nam tỉnh tiếp tục cấy trình diễn 2 giống lúa DQ11 và TBR225, mỗi giống từ 40-50ha theo cả 2 hình thức gieo sạ và gieo mạ cấy. Đến nay, toàn bộ diện tích gieo cấy 2 giống lúa thuần này đều sinh trưởng, phát triển vượt trội so với các giống lúa thuần khác và gần như sạch sâu bệnh, hứa hẹn cho năng suất cao hơn so với các giống lúa cấy đối chứng.
Thêm những giống lúa mới cho năng suất cao, chất lượng tốt phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu, khả năng chống chịu tốt là thêm cơ hội cho người nông dân nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, thoát nghèo, vươn lên khá giả, góp phần thực hiện thành công Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM.
Có thể bạn quan tâm
VS1 - giống lúa thuần chất lượng do TS Trần Duy Quý - Viện Di truyền NN chọn tạo, Công ty CP giống cây trồng Trung ương (Vinaseed) mua bản quyền. Ngay sau khi được Hội đồng KHCN Bộ NN-PTNT công nhận cho phép sản xuất thử, VS1 đã được Công ty triển khai sản xuất ở nhiều vùng sinh thái khác nhau
Khi trồng khoai tây, sử dụng giống có phẩm cấp chất lượng tốt, như cấp giống nguyên chủng hoặc xác nhận. Chọn củ giống tươi ít teo móp, kích cỡ củ đồng đều, khối lượng 1kg củ giống có từ 20-25 củ. Củ giống có mầm tươi, sạch bệnh, mầm mới nhú, mọc khỏe
Bà con ở đây đón thầy Minh như đón người thân về nhà. Gần 10 năm nay, thầy Minh gắn bó với bà con trồng cà chua của huyện Hải Hậu, bằng những giống cà chua lai đầu tiên của trung tâm, chuyển giao tới bà con gieo trồng
Có thể nói, đối với vấn đề trồng cỏ, thật không có gì dễ bằng. Để khắc phục tình hình thiếu thức ăn trong ngành chăn nuôi, đặc biệt là vào thời kỳ hạn hán như hiện nay, việc trồng các giống cỏ cao sản được xem như một giải pháp hữu hiệu, vừa tạo ra nguồn thức ăn cho gia súc, đồng thời bảo vệ tốt điều kiện môi trường, tăng độ phì nhiêu cho đất
Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam vừa có báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài: "Chọn giống kháng bệnh có năng suất cao cho bạch đàn và keo" giai đoạn 1996-2000 và 2001-2005. Theo báo cáo, đề tài đã tuyển chọn được một số giống mới chống chịu bệnh và sinh trưởng nhanh, trong đó có hai dòng keo lai AH7 và AH1