Tăng năng suất ương tôm càng xanh trong bể nổi lót bạt
Tôm càng xanh được coi như một loài động vật thân giáp nước ngọt thì giai đoạn ấu trùng của nó lại phụ thuộc vào độ lợ của nước.
Khi nó chuyển qua giai đoạn như là sinh vật phù du và trưởng thành thì nó lại hoàn toàn sống trong nước ngọt.
Vì vậy việc ương tôm càng xanh trong ao nổi lót bạt, điều chỉnh độ lợ của nước là khâu quan trọng để tôm cho năng suất cao.
Bể ương cần xây dựng ở nơi thoáng có từ 70% ánh sáng trực tiếp trở lên.
Có nguồn điện để bơm nước và sục khí.
Bể xây ở nơi xa ô nhiễm, cầu tiêu, chuồng heo gà vịt, nơi có nhiều chất thải.
Bể ương có thể xây tường bằng đất, gạch, sử dụng tường nền chuồng heo cũ, chiều cao của bể phải đạt 0,7-0,8m.
Diện tích của bể tùy nhu cầu tôm giông ương, thường diện tích 3,5 x l0m, theo thông tin từ Diễn đàn Nông nghiệp.
Bể có độ nghiêng thấp dần về cuối bể, gắn với bộng ngầm 6cm có thể đóng mở thay nước và thụ hoạch tôm.
Nối với bộng phía trong là ông lưới, khi thay nước để nước thoát ra tôm được giữ lại.
Toàn bộ bể được phủ một lớp bạt chông thấm để giữ nước.
Mỗi bể 3,5 x l0m cần lắp đặt từ 10-15 vòi thổi khí để cung cấp oxy.
Máy thổi có công suât từ 100-750W, tùy diện tích bể ương.
Nước cấp cho bể 0,5-0,6m sau một ngày là thả tôm.
Thả tàu lá dừa hoặc lưới làm giá thể cho tôm.
Nguồn nước đưa vào bể phải sạch, đã lóng cặn phù sa, nước phải qua lưới lọc kỹ để loại bỏ các vật cổ thể ảnh hưởng đến tôm.
Nên thả tôm vào buổi sáng, tuân thủ các khâu kỹ thuật để tránh tôm bị sốc nhiệt.
Mật độ thả 600-800 con/m2.
Cần giữ mực nước ương suốt thời gian ương 0,5- 0,7m.
Sau 15 ngấy ương bắt đầu thay nước, sau đó 4-5 ngày thay nước một lần, mỗi lần thay 50-70% nước trong bể.
Nước trước khi thay vào được lắng bùn, phải sạch.
Khi đáy bể dơ có thể dùng ống có lưới rà sát đáy bể hút cặn.
Thức ăn cho tôm trong trường hợp này tốt nhất là thức ăn công nghiệp và trùn chỉ để hạn chế làm bẩn nước bể ương, hoặc dùng thức ăn chế biến từ cá và trứng gà.
Lượng thức ăn từ 10-20% trọng lượng tôm.
Cho tôm ăn 4- 5 lần trong ngày.
Sau một tháng ương, tôm đạt kích cỡ 2-3cm thì thu hoạch san thưa, nếu muốn ương sang tháng thứ hai thì mật độ ương lúc này nên giảm một nữa so với ban đầu.
Hàng ngày nên kiểm tra tình trạng dử dụng thức ăn của tôm để cho tôm ăn đầy đủ, tránh dư thừa.
Thức ăn thừa dễ gây dơ đáy bể môi trường nước bị ô nhiễm và phải thông đáy và thay nước nhiều hơn.
Phải kiểm tra đá bọt và thổi khí, đảm bảo việc thổi khí liên tục theo yêu cầu, nhất là vào ban đêm.
Dự phòng máy phát điện hoặc bình Acquy để chạy máy thổi khí khi bị cúp điện.
Có thể bạn quan tâm
Bệnh đốm nâu xuất hiện quanh năm và tấn công từ cà tôm ấu trùng đến tôm trưởng thành. Nhưng khi bị bệnh thì tỷ lệ hao hụt của tôm ấu trùng cao hơm tôm lớn.
Hiện nay, bà con nông dân quen nuôi tôm có kích thước từ 3-4 cm trở lên, chưa quen nuôi giống nhỏ, cho nên việc vận chuyển giống lớn phải đảm bảo kỹ thuật mới cho tỷ lệ sống cao.
Một số bệnh thường gặp trên tôm càng xanh và cách chữa trị
Tôm càng Hồ Tây còn gọi là tôm xanh tên khoa học là Macrobrachium nippovensis phân bố rộng ở sông, suối, ao, hồ chứa, ruộng nước, kênh mương. Tuy không lớn nhưng thịt thơm ngon, giá trị kinh tế cao. Gần đây ở Trung Quốc giá tôm này còn cao hơn tôm càng xanh. Ở Hồ Tây (Hà Nội) sản lượng đạt 30 – 40 tấn (1965).
Nhiệt độ thích hợp cho tôm càng xanh sinh trưởng và phát triển 22 – 230C, thích hợp nhất là 28 – 310C. Giới hạn nhiệt độ là 14 – 400C, mùa vụ nuôi tôm càng xanh ở miền Bắc thích hợp nhất là từ tháng 4 đến tháng 11 (dương lịch). Mùa đông ở miền Bắc nước ta thường kéo dài 4 – 5 tháng, nhiệt độ xuống thấp không những ảnh hưởng lớn đến những loài cá chịu lạnh kém (cá rô phi, cá chim trắng) mà còn ảnh hưởng nhiều đến sự tồn tại và sinh trưởng, phát triển của tôm càng xanh.