Sinh sản nhân tạo giống lươn đồng

Từ tháng 12/2014, từ nguồn lươn đồng giống ở một số địa phương trong tỉnh và từ Nam bộ đem về, Trung tâm nuôi vỗ trong các bể xi măng lót bạt, không bùn. Con bố, mẹ đều nuôi riêng. Thức ăn là cá tạp trộn với thức ăn tổng hợp xay nhỏ làm thành bánh. Sau 3 tháng nuôi vỗ, lươn bố mẹ đã đến giai đoạn thành thục, đạt trọng lượng thân khoảng 170 g/con cái và 270 g/con đực và bắt đầu cho sinh sản. Đưa lươn bố mẹ vào bể đẻ, xung quanh lót bạt nylon và cả một lượng lớn bùn, khoảng giữa bể là nước. Tỷ lệ đực - cái là 1 - 1 và 1 - 2 với mật độ 15 - 20 con/m2. Lúc này, cũng cho ăn bình thường. Duy trì nhiệt độ từ 24 - 360C, tùy theo buổi sáng, chiều, bằng cách che tủ, phun sương. Sau 20 ngày thì lươn đẻ và bắt đầu thu trứng. Cứ 9 ngày thu một lần.
Trứng sau khi thu được cho vào ấp. Hệ thống ấp là những chiếc thau nhựa thể tích 10 - 20 lít, để trong nhà, có sục khí oxy để phôi phát triển. Nhiệt độ tốt nhất khi ấp là 25 - 280. Sau 4 - 5 ngày, trứng nở thành lươn bột. Sau đó nuôi từ lươn bột lên lươn hương giống phải mất 30 ngày, từ lươn hương lên lươn giống cấp 1 mất 60 ngày nữa, để đạt trọng lượng 0,3 g/con và chiều dài 4 cm/con; từ con giống cấp 1 lên con giống cấp 2 mất 2,5 tháng, để đưa ra nuôi thương phẩm.
Như vậy, tính ra từ lươn bột nuôi thành lươn giống cấp 2 để cung cấp cho nuôi thương phẩm phải mất 5 tháng.
Kết quả cho sinh sản lươn đồng của Trung tâm cho thấy, với tỷ lệ thụ tinh là 79,76%, sức sinh sản trung bình là 1,43 trứng/g con cái, tỷ lệ nở trung bình 73,67%, là ổn định và chấp nhận được. Sau hơn 6 tháng, Trung tâm đã cho ấp nở được trên 32 ngàn con lươn bột, 11.600 con lươn hương, 5.600 con lươn giống cấp 1, và 5.100 con lươn giống cấp 2.
KS Nguyễn Thế Vũ - chủ nhiệm đề tài cho sinh sản, nuôi thương phẩm lươn đồng đánh giá, tỷ lệ thành thục nuôi vỗ con bố, mẹ, các tỷ lệ về thụ tinh, ấp nở, hao hụt qua các giai đoạn ươm giống từ con giống hương lên giống cấp 2 như vậy là chấp nhận được, tỷ lệ hao hụt thấp, lươn lớn nhanh, khỏe mạnh… Tháng 9 - 10/2015, Trung tâm sẽ tiếp tục cho lươn sinh sản tiếp, sau đó có đúc kết đánh giá để chọn thời vụ tốt nhất cho lươn sinh sản trong năm.
Bên cạnh việc nghiên cứu cho lươn sinh sản, ấp nở, ươm nuôi con giống, Trung tâm còn tổ chức 3 mô hình nuôi thương phẩm ở huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ và TP. Quy Nhơn. Các mô hình này hoàn toàn nuôi theo phương pháp nuôi lươn không bùn. Mỗi mô hình được cung cấp 1.500 đến 2.000 con lươn giống cấp 2.
Tại mô hình nhà ông Trịnh Văn Minh, thôn Diêm Tiêu, thị trấn Phù Mỹ, huyện Phù Mỹ, đề tài cung cấp 1.500 con giống cấp 2. Qua 4 tháng nuôi, hao hụt chỉ 10%, con lươn phát triển bình thường. Với thức ăn gồm 60% trùn quế, 40% còn lại là thức ăn công nghiệp tổng hợp, khả năng 6 tháng đạt 0,3 kg/con. Theo ông Minh, chất lượng con giống tốt, ít bệnh tật. Tuy nhiên, giống lươn này có màu da không được vàng lắm, người tiêu dùng ít thích.
Ngoài nuôi lươn mô hình, ông Minh còn nuôi 3.000 con lươn thương phẩm trong không bùn, trong hệ thống bể xi măng đặt trong vườn nhà. Ông có nhiều kinh nghiệm nên con lươn ít bệnh tật và ông đã thành công
Theo đánh giá của ông Nguyễn Thế Vũ, 3 mô hình nuôi lươn thương phẩm, mật độ 150 - 200 con/m2 (nuôi có bùn chỉ 30 - 40 con/m2) tuy chưa đến thời kỳ thu hoạch nhưng quá trình nuôi, con lươn phát triển tốt, tăng trọng trên 1 g/ngày, khoảng 5 - 6 tháng là bán được. Con giống được cho sinh sản tại địa phương, phần nào có tính thích nghi cao với điều kiện nhiệt độ, khí hậu, nguồn nước… nên ít xảy ra dịch bệnh. Nếu so với con giống di nhập từ miền Nam về, do không quen điều kiện khí hậu ở địa phương nên chết nhiều. Mỗi mô hình đều có chuyên gia thủy sản theo dõi hướng dẫn. Thức ăn chủ yếu tận dụng nguồn cá tạp ở địa phương xay nhỏ, trộn với thức ăn công nghiệp.
Sắp tới, Trung tâm cho sinh sản, ươm nuôi con giống đến giai đoạn giống cấp 1, còn ươm giống cấp 1 lên cấp 2 sẽ là người nuôi thương phẩm thực hiện. Vì như vậy sẽ làm giảm giá thành con giống cho người nuôi đến gần một nửa.
Có thể bạn quan tâm

Đối tượng gây hại chủ yếu gồm: Rầy nâu ở trà lúa giai đoạn đẻ nhánh đến chuẩn bị làm đòng; bệnh đạo ôn lá trên một số diện tích canh tác giống Jasmine 85, OM 4218,… tập trung tại quận Thốt Nốt, với tỷ lệ phổ biến từ 5-10%. Các đối tượng dịch hại khác như ốc bươu vàng, bù lạch, chuột, bệnh thối gốc vi khuẩn phân bố tại huyện Cờ Đỏ, quận Thốt Nốt và Cái Răng.

Nông dân được công ty cung cấp lúa giống chất lượng cao với giá thấp hơn thị trường 200 - 300 đồng/kg và sẽ hoàn vốn cho công ty khi thu hoạch xong; được hướng dẫn kỹ thuật nông nghiệp để đem lại hiệu quả cao nhất. Khi thu hoạch, công ty sẽ hỗ trợ nông dân công chuyên chở về nhà máy và mua với giá cao hơn thị trường từ 200 - 400 đồng/kg.

Thanh long Bình Thuận xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc thông qua hai cửa khẩu: Pò Chài và Hà Khẩu. Mỗi năm tại các cửa khẩu đã tiêu thụ hơn 300.000 tấn thanh long Bình Thuận (chiếm 65% sản lượng thanh long toàn tỉnh). Song, con đường trái thanh long đến với thị trường Trung Quốc đầy “gập ghềnh” nơi biên giới.

Ông Nguyễn Xuân Định (khu Tân Mai, phường Đông Mai, TX Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh) nổi tiếng ở thị xã với nguồn thu nhập cao từ vườn cây ăn trái. Nhiều năm trước, ông Định đã chuyển đổi cơ cấu cây trồng thích hợp, áp dụng tốt kỹ thuật chăm sóc cây trên cơ sở đặc tính của từng loại cây trồng từ đó nâng cao hiệu quả kinh tế trên diện tích đất vườn đồi. Mô hình phát triển kinh tế của ông đã được nhiều gia đình học tập kinh nghiệm và làm theo.

Vừa trở về sau chuyến khai thác ruốc biển, ông Phan Cảo (thôn Thủy Đầm, phường Ninh Thủy) cho biết, khai thác ruốc không phải là nghề chính của ngư dân Ninh Thủy, nhưng năm nay ruốc xuất hiện dày nên nhiều tàu thuyền khai thác xa bờ ở Ninh Thủy đã tranh thủ ở lại bờ để khai thác.