Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Sản xuất - tiêu thụ rau an toàn giải bài toán lòng tin và chất lượng

Sản xuất - tiêu thụ rau an toàn giải bài toán lòng tin và chất lượng
Ngày đăng: 16/11/2015

Nhìn chung, đề án bước đầu đã làm thay đổi nhận thức của người sản xuất trong việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) song đầu ra của sản phẩm còn bấp bênh, người tiêu dùng chưa tin tưởng RAT dù đã gắn tem, nhãn mác, nhiều doanh nghiệp tiêu thụ rau phá sản do kinh doanh không có lãi...

Giải pháp để người sản xuất, doanh nghiệp kinh doanh RAT có lãi và người tiêu dùng được sử dụng rau sạch là những nội dung được thảo luận trong hội nghị kiểm soát, kết nối sản xuất tiêu thụ RAT Hà Nội năm 2015 do Chi cục BVTV Hà Nội tổ chức ngày 12-11.

Người tiêu dùng thiếu lòng tin

Thực hiện đề án sản xuất, tiêu thụ RAT giai đoạn 2010 - 2015, toàn thành phố đã có 5.100ha RAT, trong đó 171ha rau VietGAP và 21ha rau hữu cơ.

Sản lượng đạt 400 nghìn tấn/năm, đáp ứng 40% nhu cầu tiêu dùng, giá trị đạt 300 - 500 triệu đồng/ha/năm.

Riêng các vùng trồng rau trái vụ tăng thêm 3 - 5 vụ/năm, giá trị sản xuất đạt 1 tỷ đồng/ha/năm, có diện tích đạt 2 tỷ đồng/ha/năm.

Ông Nguyễn Duy Hồng - Chi cục trưởng Chi cục BVTV Hà Nội cho biết, hiện sản xuất RAT vẫn khó khăn ở đầu ra do người tiêu dùng chưa thực sự tin tưởng vào chất lượng.

Thời gian qua, RAT Hà Nội đã hình thành một số chuỗi từ sản xuất đến tiêu thụ, có tem, nhãn nhận diện, truy xuất nguồn gốc, được tiêu thụ qua 18 doanh nghiệp, 17 HTX cung cấp cho các cửa hàng bán lẻ, điểm phân phối, bếp ăn tập thể và hệ thống siêu thị nhưng sản lượng còn ít, chỉ đạt 20.000 tấn/năm, chiếm 5% sản lượng RAT, 3% sản lượng rau, 2% nhu cầu tiêu dùng.

Còn RAT chưa có tem, nhãn nhận diện truy xuất nguồn gốc tiêu thụ tại các chợ đầu mối, chợ dân sinh, khu dân cư với sản lượng trên 370.000 tấn/năm chiếm 92,5% sản lượng RAT, 61,67% sản lượng rau, 37% nhu cầu tiêu dùng.

Các doanh nghiệp kinh doanh RAT rất ít, hệ thống bán lẻ tiện ích chưa phát triển mạnh nên số lượng RAT tiêu thụ không nhiều; người sản xuất chưa bán được đúng với giá trị của rau dẫn đến nhiều doanh nghiệp kinh doanh RAT bị thua lỗ nặng hay phá sản thời gian qua như: Tonkin, Hương Cảnh...

Chưa kể, theo ông Nguyễn Mạnh Tùng - Chủ nhiệm HTX Dịch vụ nông nghiệp Lĩnh Nam (Thanh Trì), hiện RAT chưa tạo được lòng tin cho người tiêu dùng do một số HTX, doanh nghiệp làm ăn bất chính trà trộn RAT với rau thường sau đó bán với giá cao; chủng loại RAT còn đơn điệu, chưa tạo được sự thích thú cho người tiêu dùng.

Quản lý chặt chẽ các khâu

Thực tế, người tiêu dùng đang có xu hướng sử dụng nhiều loại RAT, nhưng do chất lượng chưa bảo đảm nên sản lượng tiêu thụ còn ít.

Theo bà Đỗ Thị Liên - Chủ nhiệm HTX RAT Đạo Đức (Đông Anh), để RAT có chỗ đứng trên thị trường, các ngành chức năng cần tuyên truyền để người dân áp dụng đúng các biện pháp sản xuất từ việc làm đất, thời gian dùng thuốc BVTV đúng kỹ thuật; tăng cường kiểm tra, lấy mẫu ở các vùng sản xuất, các điểm kinh doanh RAT để xét nghiệm các chỉ tiêu, bảo đảm quyền lợi cho những HTX, doanh nghiệp làm ăn chân chính.

Bên cạnh đó, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ về cơ sở hạ tầng cho vùng RAT.

Hiện theo đề án sản xuất RAT đã có 30 dự án được phê duyệt về làm hạ tầng nhưng mới chỉ có 10 dự án hoàn thành và đưa vào sử dụng.

Hạ tầng cơ sở hoàn chỉnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc sơ chế, đóng gói, bao tiêu sản phẩm RAT ra thị trường được khép kín.

Chi cục trưởng Chi cục BVTV Hà Nội Nguyễn Duy Hồng cho biết, phải xây dựng được hệ thống khép kín về RAT thì nông dân mới có chỗ tiêu thụ; doanh nghiệp phải cùng nông dân chia sẻ những khó khăn khi giá rau xuống thấp, bảo đảm các bên cùng có lợi.

Tuy nhiên, người dân cũng cần nâng cao nhận thức trong việc áp dụng đúng các quy trình sản xuất RAT.

Để làm được việc này, mỗi vùng rau nên hình thành tổ nhóm nhằm kiểm soát lẫn nhau, bảo đảm chất lượng rau khi đưa ra thị trường.


Có thể bạn quan tâm

Dự án CLUES sự thích ứng của hệ thống canh tác sản xuất lúa Dự án CLUES sự thích ứng của hệ thống canh tác sản xuất lúa

Các nhà khoa học dự báo: khu vực ĐBSCL chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu (BĐKH), nhất là nước biển dâng. Dự án CLUES ra đời, được triển khai ở 4 tỉnh An Giang, Hậu Giang, Cần Thơ và Bạc Liêu. Dự án này đánh giá sự tổn thương và các tác động đến sử dụng đất, sự thích ứng của các hệ thống canh tác lúa…

20/06/2015
Mô hình sản xuất giống nông hộ mang lại hiệu quả cao Mô hình sản xuất giống nông hộ mang lại hiệu quả cao

Anh Nông Tấn Dí ở xã Tân Thạnh, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp trước đây chủ yếu sản xuất lúa thương phẩm, nhưng việc canh tác không mang lại hiệu quả cao do sử dụng lúa thịt để làm lúa giống.

20/06/2015
Nông dân tập trung xuống giống mì Nông dân tập trung xuống giống mì

Theo nhiều hộ dân ở những vùng trồng mì lớn trong tỉnh Đồng Nai, năm nay do thời tiết nắng nóng kéo dài và lượng mưa đầu vụ không ổn định nên phải giữa tháng 6 mới triển khai xuống giống mì được, thay vì trồng trong tháng 5 như mọi năm.

20/06/2015
Sử dụng thuốc BVTV trên cây trồng nhà nông cần cẩn trọng hơn trong lựa chọn Sử dụng thuốc BVTV trên cây trồng nhà nông cần cẩn trọng hơn trong lựa chọn

Ngày 13/6, Chi cục Bảo vệ thực vật Lâm Đồng cho biết là đã có thêm một lần nữa khuyến cáo nhà nông về việc sử dụng các loại thuốc BVTV trên cây chè. Theo đó, hiện tại trên cây chè, có 3 loại hoạt chất rất đáng quan tâm là fipronil, acetamiprid và imidacloprid đang để lại dư lượng vượt ngưỡng khiến trà Việt Nam khó thâm nhập thị trường thế giới.

20/06/2015
Nửa đêm ra đồng Nửa đêm ra đồng

Do thời tiết nắng nóng, hiện nay nhiều nông dân ra đồng làm việc vào ban đêm, thay vì ban ngày như thói quen lao động hàng bao năm qua.

20/06/2015