Sản xuất thành công giống lúa kháng sâu, rầy

Kiểm tra mô hình giống lúa chất lượng cao
Nhiều ưu điểm vượt trội
Ghi nhận trên các cánh đồng lúa PC6, NH6, RG3.3… được khảo nghiệm thí điểm trong vụ hè thu 2015 mới đây, cho thấy nhiều tính năng vượt trội so với các giống lúa thông thường.
Các giống mới không chỉ đạt năng suất, chất lượng sản phẩm cao, bán được giá mà còn chống chịu các loại sâu bệnh rất tốt.
Trong khi các mô hình đối chứng như Khang dân, HT1… bị các loại sâu, rầy gây hại thì các giống lúa trên ít nhiễm bệnh, các loại bệnh đạo ôn, khô vằn, rầy lưng trắng hầu như không xuất hiện.
Ông Cao Văn Thắng ở xã Quảng Vinh (Quảng Điền - Thừa Thiên Huế), bộc bạch: “Khi bắt tay triển khai mô hình, nông dân chúng tôi chưa thật sự tin tưởng về tính ưu việt của các giống lúa mới.
Sau khi kết thúc mùa vụ, bà con thật sự bất ngờ khi các giống lúa ít nhiễm sâu bệnh, năng suất và chất lượng sản phẩm hơn so với các giống khác.
Một số loại sâu bệnh nguy hiểm không xảy ra”.
Ông Trần Quang Phước, Trưởng phòng Trồng trọt-Chăn nuôi (Sở Nông nghiệp và PTNT) cho biết, trong điều kiện biến đổi khí hậu, tình hình sâu bệnh diễn biến ngày càng phức tạp, việc khảo nghiệm, sản xuất thí điểm các mô hình giống lúa kháng rầy, chống chịu sâu bệnh là việc làm đang được ngành nông nghiệp quan tâm.
Các vụ lúa vừa qua, ngành nông nghiệp đã khảo nghiệm, sản xuất thành công nhiều mô hình giống lúa mới chất lượng cao, có khả năng kháng rầy, chống chịu rất tốt các loại sâu bệnh đạo ôn, khô vằn, như HN6, RG3.3, PC6…
Gần đây, PGS, Tiến sĩ Trần Đăng Hòa cùng các cộng sự của Trường đại học Nông lâm Huế khảo nghiệm thành công các giống lúa kháng rầy lưng trắng.
Đây là loại bệnh được xác định rất nguy hiểm đối với cây lúa và là tác nhân dẫn đến nhiều loại sâu bệnh khác.
Qua công tác nghiên cứu, khảo nghiệm cho thấy, có đến 5 giống lúa có khả năng kháng rầy lưng trắng, thích hợp với điều kiện đất đai, khí hậu ở Thừa Thiên Huế.
Đó là các giống ĐT34, Quảng Nam 1, Q5, PC6, HP28, trong đó hai giống lúa DDT34 và PC6 được xác định có mật độ rầy gây hại rất ít.
Hai giống lúa này còn đạt năng suất bình quân 65 tạ/ha, sản phẩm chất lượng cao, dễ tiêu thụ, cho thu nhập mỗi năm từ 68 triệu đến 76 triệu đồng/ha.
Thông qua mô hình, Trường đại học Nông lâm Huế tổ chức tuyên truyền, tập huấn và chuyển giao khoa học, kỹ thuật sản xuất các giống lúa cho người dân; đồng thời khuyến cáo bà con nên mở rộng diện tích sản xuất các giống lúa kháng rầy lưng trắng nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất trong điều kiện biến đổi khí hậu.
Nhân rộng sản xuất
Chi cục trưởng Chi cục Bảo vệ Thực vật tỉnh Cái Văn Thám nhận định, mấy năm gần đây, tác động của biến đổi khi hậu đã ảnh hưởng khá rõ nét đến tình hình sản xuất nông nghiệp, trong đó có công tác bảo vệ thực vật.
Vậy nên, việc tiếp tục nghiên cứu, khảo nghiệm mô hình sản xuất các giống lúa kháng bệnh là điều hết sức cần thiết.
Một thực tế hiện nay là, tuy hiệu quả của các giống lúa mới đã được chứng minh nhưng việc ứng dụng vào sản xuất còn khiêm tốn.
Các vụ lúa sắp đến, ngành nông nghiệp tiếp tục nhân rộng các mô hình tại nhiều địa phương để làm cơ sở từng bước thay thế các giống lúa thông thường, chất lượng thấp; có chính sách hỗ trợ các đơn vị, doanh nghiệp tiếp tục nghiên cứu, khảo nghiệm các giống lúa mới.
Trong quá trình triển khai các mô hình thí điểm, các đơn vị cần có sự phối hợp với ngành bảo vệ thực vật nhằm có sự đánh giá cụ thể về khả năng chống chịu sâu bệnh, kháng rầy.
Sự tham gia nghiên cứu, khảo nghiệm của ngành bảo vệ thực vật còn góp phần duy trì khả năng kháng bệnh của các giống lúa.
Cùng với các cơ quan, ban ngành, ngành nông nghiệp cần có chính sách hỗ trợ kinh phí cho Chi cục Bảo vệ Thực vật triển khai các mô hình thí điểm các giống lúa kháng bệnh.
Biện pháp canh tác được chi cục quan tâm là phương thức quản lý dịch hại tổng hợp.
Đây là một trong những yếu tố quản lý, bảo vệ sinh vật có ích nhằm hạn chế phát sinh các loại sinh vật có hại.
Với phương thức canh tác này còn hạn chế việc lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật trong quá trình sản xuất, giảm chi phí đầu tư…
Các giống lúa NH6, PC6, RG3.3… đều có bán tại Công ty cổ phần Giống cây trồng vật nuôi tỉnh và Công ty TNHH Liên Việt (KCN Phú Đa, huyện Phú Vang).
Giá các giống lúa này không quá cao so với các giống thông thường.
Có thể bạn quan tâm

Ông Nguyễn Thuận (tổ dân phố Hậu Phước, phường Ninh Hà) cho biết: “Nuôi tôm trái vụ nếu gặp thời tiết thuận lợi thì có lãi, nhưng gặp mưa bão thì mất trắng. Cũng vì sự bấp bênh ấy mà người dân không dám thả nuôi nhiều”. Năm 2013, 2 vụ nuôi chính, gia đình ông Thuận thua lỗ hơn 100 triệu đồng. Sau đó, gia đình ông tiếp tục thả nuôi vụ phụ vào mùa đông với 15 vạn con tôm thẻ chân trắng, 6.000 con cua, 3.000 con cá dìa.

Cá bông lau là loài da trơn, thân mình thon dài, đuôi đỏ, chỉ đánh bắt trong môi trường tự nhiên nên cá được nhiều người ưa chuộng bởi thịt trắng, sạch, béo, mùi thơm đặc trưng và giàu dinh dưỡng. Loài cá này không dễ đánh bắt, ngày nay lại càng hiếm hơn khiến giá bán rất cao, từ 150.000 - 250.000 đồng/kg, có khi bắt được cá lớn bán được cả triệu đồng. Theo kinh nghiệm riêng, người đánh bắt xác định những vùng nước có ổ cá để giăng lưới, rồi nằm tài đợi cả đêm cũng như dân chạy xe ôm chờ khách.

Ngày 10-2, các chủ thu mua tôm hùm giống tại đường Hàm Tử, phường Hải Cảng, TP Quy Nhơn cho biết, giá tôm hùm bông giống cao nhất là 370 nghìn đồng/con đối với tôm hùm bông từ đầu vụ thì nay đã giảm còn 170 nghìn đồng/con. Còn đối với tôm hùm xanh, dao động ở mức 70 nghìn đồng/con.

Vài năm trở lại đây, cùng với việc đầu tư mạnh trong việc đóng mới tàu cá công suất lớn để vươn khơi đánh bắt xa bờ, ngư dân trong tỉnh còn hiện đại hóa các thiết bị hỗ trợ, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Ngành kinh tế biển tiếp tục phát triển mạnh đứng vào tốp đầu cả nước.

Năm 2014, sản xuất thủy sản của tỉnh Nam Định tiếp tục phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá, sức cạnh tranh cao phù hợp với hệ sinh thái, khai thác tối đa lợi thế của địa phương; nâng cao năng lực khai thác xa bờ. Tổng sản lượng thủy sản cả năm đạt 110,4 nghìn tấn, tăng 9,5% so với năm 2013; trong đó sản lượng nuôi trồng đạt 65.900ha, sản lượng khai thác đạt 44.500ha.