Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Sản Xuất Đại Trà Giống Cá Hồng Bạc: Gặp Khó Khăn

Sản Xuất Đại Trà Giống Cá Hồng Bạc: Gặp Khó Khăn
Ngày đăng: 27/06/2012

Sau khi thực hiện thành công đề tài khoa học cấp tỉnh về “Nghiên cứu kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo cá hồng bạc Lutjanus argentimaculatus (Forsskal, 1775)”, nhóm tác giả do Thạc sĩ Nguyễn Địch Thanh (Khoa Nuôi trồng thủy sản Trường Đại học Nha Trang) làm chủ nhiệm đang hoàn thành quy trình sản xuất giống và tiến hành chuyển giao công nghệ cho người dân. Tuy nhiên, do đặc điểm sinh học đặc thù, hiện nay, việc chuyển giao công nghệ và sản xuất đại trà giống cá hồng bạc còn gặp một số khó khăn nhất định.Là công trình nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam về sản xuất giống nhân tạo loài cá hồng bạc, đề tài nghiên cứu của nhóm tác giả nhận được sự đánh giá cao từ nhiều chuyên gia ngành Thủy sản. Đề tài nghiên cứu này đã góp phần làm phong phú thêm đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao tại các vùng biển Việt Nam nói chung và Khánh Hòa nói riêng. Hoàn thành pha 1 của đề tài, nhóm tác giả đã sản xuất được hơn 30.000 con cá hồng bạc giống với kích cỡ từ 3 đến 5 cm/con. Đồng thời, nhóm tác giả cũng đưa ra được quy trình kỹ 
thuật sản xuất giống nhân tạo cho loại cá biển này.

Cá hồng bạc phân bố tương đối rộng rãi nhưng tập trung nhiều nhất ở vùng biển các tỉnh Nam Trung bộ. Giống như một số loài cá khác (cá mú, cá chẽm mõm nhọn), cá hồng bạc cũng là loài cá rạn, sống chủ yếu ở những vùng biển có đáy rạn đá san hô, vùng nhiều rong biển. Đàn cá bố mẹ được nhóm tác giả tuyển chọn từ việc đánh bắt tự nhiên và nuôi thuần dưỡng, nuôi vỗ thành thục tại vùng biển Vũng Ngán với tỷ lệ sống khá cao (khoảng 76,3%). Khi đã thành thục, cá bố mẹ được kích thích cho đẻ trứng bằng cách tiêm hormone HCG và LHRHa. Thạc sĩ Nguyễn Địch Thanh cho biết: “Qua nghiên cứu về cá hồng bạc, chúng tôi thấy tỷ lệ sống trung bình của cá bột 1, 2 ngày tuổi rất cao, từ 89 đến 100%. Tuy nhiên, đến ngày tuổi thứ 3, tỷ lệ sống thấp dần. Đây là giai đoạn cá bột hết nguồn năng lượng nội sinh, nguồn năng lượng cung cấp cho mọi hoạt động sống của cá bột hoàn toàn từ thức ăn bên ngoài. Giai đoạn này cá bột còn yếu, khả năng bắt mồi hạn chế nên tỷ lệ sống đạt thấp nhất. Xác định đây là khó khăn về đặc thù sinh học của loạ

i cá hồng bạc, chúng tôi đã tập trung nghiên cứu nguồn thức ăn phù hợp với độ mở của miệng cá bột để tăng tỷ lệ cá sống ở giai đoạn này”.

Không giống như các loài cá biển khác có thể ăn luân trùng sau khi nở thành cá bột, cá hồng bạc phải ăn ấu trùng hàu trước khi chuyển sang giai đoạn ăn luân trùng. Tuy nhiên, thời gian cho ăn cũng phải được nghiên cứu kỹ lưỡng để giúp cá bột có thể tiếp cận nguồn thức ăn đúng lúc cá có độ mở miệng. Đây được xác định sẽ là một khó khăn khi tiến hành chuyển giao công nghệ và sản xuất đại trà cá hồng bạc. Để khắc phục được khó khăn này, trong luận án tiến sĩ, Thạc sĩ Nguyễn Địch Thanh cũng tiếp tục nghiên cứu đặc điểm sinh học, sinh sản của cá hồng bạc và ảnh hưởng của nguồn thức ăn đến tỷ lệ sống của cá bột. Ông đã đưa ra hướng giải quyết khó khăn là cần phải nuôi luân trùng siêu nhỏ dòng (ss) và thử nghiệm cho cá bột ăn khi hết noãn hoàng để nâng cao tỷ lệ sống.

Tuy có giá trị kinh tế cao (giá bán trên thị trường khoảng 150 ngàn đồng/kg) nhưng do những khó khăn về đặc điểm sinh học, việc chuyển giao công nghệ cho người dân sản xuất đại trà cá hồng bạc gặp nhiều khó khăn. Thạc sĩ Nguyễn Địch Thanh cho biết: “Với yêu cầu về nguồn thức ăn và cách cho ăn khá phức tạp ở giai đoạn cá bột sẽ không có nhiều hộ nuôi sản xuất thành công giống cá hồng bạc. Chỉ có những cơ sở nuôi đầu tư bài bản về nhân lực và điều kiện vật chất mới có thể triển khai thành công”.

Có thể bạn quan tâm

Nuôi Cua Bể... Chờ Giá Nuôi Cua Bể... Chờ Giá

Ông Đoàn Văn Chính, Phó Trưởng phòng NN-PTNT huyện Cái Nước cho biết, diện tích nuôi cua kết hợp một số đối thượng khác của huyện đạt trên 6.000 ha, hiện đang trong thời gian thu hoạch nhưng bà con chưa mặn mà do giá thấp.

28/11/2014
Sức Hút Của Thanh Long Sức Hút Của Thanh Long

Trải qua hành trình cả trăm năm, thanh long - loại cây ăn trái có nguồn gốc từ sa mạc đã trở thành một trong những loại cây trồng chủ lực có lợi thế phát triển, xuất khẩu bậc nhất của Việt Nam. Song, cũng như nhiều loại cây ăn trái khác, thanh long đã trải qua những bước thăng trầm; điệp khúc “được mùa rớt giá” vẫn cứ lặp đi lặp lại và đang đối mặt với nhiều vấn đề cần giải quyết.

27/06/2014
Vú Sữa Lò Rèn Giá Thấp Vú Sữa Lò Rèn Giá Thấp

Hiện tại, vú sữa Lò Rèn loại 1 được các thương lái thu mua tại vựa chỉ khoảng 30.000đ/kg; loại 2 đến tay người tiêu dùng khoảng 20.000đ/kg; loại 3 khoảng 15.000 – 18.000đ/kg. Trong đó, năm trước giá vú sữa Lò Rèn loại 1 có giá 40.000 - 45.000đ/kg; loại 2 khoảng 30.000đ/kg; loại 3 từ 22.000đ/kg trở lên.

28/11/2014
Thanh Long Ruột Đỏ Không Đủ Bán Thanh Long Ruột Đỏ Không Đủ Bán

Ông Nguyễn Hữu Tài, giám đốc HTX Sản xuất, tiêu thụ và XK thanh long Dương Xuân cho biết, nhờ thị trường XK thanh long sang Trung Quốc khởi sắc, các DN XK thanh long liên tiếp nhận được những đơn hàng mới, đặc biệt là các đơn hàng thanh long ruột đỏ nên họ không ngừng đẩy giá lên. Ngoài ra, nguyên nhân tăng giá còn do diện tích thanh long ruột đỏ còn hạn chế.

28/11/2014
Khánh Thành Nhà Máy Chế Biến Tôm 5.000 Tấn/năm Khánh Thành Nhà Máy Chế Biến Tôm 5.000 Tấn/năm

NM được xây dựng trên diện tích gần 5 ha (giai đoạn 1), trong đó nhà xưởng 18.600 m2, được lắp đặt thiết bị tiên tiến nhất do Mỹ, Nhật Bản và châu Âu chế tạo, với tổng vốn đầu tư trên 170 tỷ đồng, công suất chế biến 5.000 tấn tôm thành phẩm/năm, tạo việc làm cho 750 lao động, doanh thu XK khoảng 50 - 60 triệu USD.

28/11/2014