Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Phát triển vùng nguyên liệu rừng trồng thua trên sân nhà

Phát triển vùng nguyên liệu rừng trồng thua trên sân nhà
Ngày đăng: 23/10/2015

Bán rừng non

Gần một thập niên qua, các huyện miền núi hầu như xem phát triển rừng là ngành kinh tế mũi nhọn, cứu cánh cho công tác xóa đói giảm nghèo dài lâu.

Trong các báo cáo kinh tế - xã hội ở nhiều địa phương gần đây thường có chung thông tin về độ che phủ rừng, diện tích vùng nguyên liệu năm sau cao hơn năm trước, xã hội hóa nghề rừng…

Tuy nhiên, ở góc nhìn kinh tế, chưa thấy nơi nào phân tích chất lượng, giá trị năng suất cây trồng trên diện tích thâm canh, sự hội nhập của kinh tế rừng trên thị trường thế giới ra sao.

Theo thống kê của ngành nông nghiệp tỉnh giai đoạn 2011 - 2014,  nguồn thu từ lâm nghiệp rất thấp, bình quân 560 tỷ đồng mỗi năm, đóng góp của lĩnh vực này vào GRDP toàn tỉnh xấp xỉ 4% tính toán dựa trên lượng gỗ khai thác từ rừng trồng và tận dụng từ rừng tự nhiên.

Chất lượng và giá trị của rừng sản xuất đem lại thấp hơn nhiều so với các tỉnh lân cận.

Tại nhiều huyện miền núi, rừng nguyên liệu trồng thông thường 5 năm là khai thác, hiếm tìm thấy rừng hơn 10 năm tuổi.

Người dân bán non rừng sản xuất để có chi phí tái đầu tư, đồng thời tránh rủi ro về thời tiết gió bão.

Rừng trồng gỗ lớn cho giá trị kinh tế cao hơn, nhưng vì nghèo khó nên dân chấp nhận bán non.

Nhiều địa phương trong tỉnh khủng hoảng rừng trồng gỗ lớn như thế này.

Khai thác non, chất lượng gỗ thấp nên giá trị kinh tế giảm rõ rệt.

Thời gian qua, ít sản lượng gỗ có đường kính lớn từ 20cm trở lên để chế biến đồ gỗ.

Một trong những đơn vị kinh doanh, sản xuất gỗ lớn trong tỉnh như Công ty CP Lâm đặc sản xuất khẩu Quảng Nam cũng thừa nhận bất cập vùng nguyên liệu gỗ là đã… thua trên sân nhà.

Dù chủ trương phát triển rừng đảm bảo chất lượng nhưng nhiều năm công ty mới thực hiện 1.500ha rừng trồng đạt tiêu chuẩn chứng chỉ quốc tế FSC.

Mỗi năm, công ty này có nhu cầu 12 - 15 nghìn mét khối gỗ keo nguyên liệu để phục vụ sản xuất.

Trong đó, gỗ tròn đạt tiêu chuẩn, chứng nhận FSC chiếm 70 - 80%.

Một thời gian dài, công ty phải nhập khẩu gỗ từ Malaysia với giá 145 - 150 USD/m3.

Trước đây, nguồn nguyên liệu gỗ keo từ các dự án trồng rừng của Nhà nước như các chương trình 327, 661… với độ tuổi khai thác trung bình 10 - 12 năm, đảm bảo cho ngành công nghiệp chế biến gỗ.

Tuy nhiên, những năm gần đây, sự ồ ạt ra đời của hàng loạt nhà máy dăm trong và ngoài tỉnh đã hút hết nguồn gỗ nguyên liệu, trong khi gỗ dành cho hàng mộc càng khan hiếm, chất lượng kém.

Thực tế đã xảy ra nghịch lý: doanh nghiệp, người dân trồng rừng bán gỗ dăm ra nước ngoài với giá thấp, còn doanh nghiệp chế biến gỗ phải nhập khẩu nguyên liệu gỗ với giá cao.

Ông Huỳnh Tấn Đức - Giám đốc Sở NN&PTNT từng nhìn nhận đang khủng hoảng nghiêm trọng rừng trồng gỗ lớn.

Bán rừng non là lãng phí tài nguyên, không phải là sự lựa chọn phát triển lâm nghiệp bền vững.

Trong khi người dân hoàn toàn có thể kéo dài thời gian trồng rừng, sẽ hiệu quả kinh tế hơn, thì họ buộc phải thu hoạch sớm.

Rừng trồng phát triển tự phát

Sự thuận lợi của thị trường lâm sản thời gian qua là ổn định và ít bị biến động về giá cả.

Sản phẩm gỗ ít chịu tác động tiêu cực từ việc hội nhập Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) do gỗ vừa khan hiếm vừa có tính đặc chủng.

Xét ở thị trường xuất khẩu, Quảng Nam có lợi thế về vận chuyển đường biển lẫn đường bộ; song rào cản lớn nhất là sản phẩm phần lớn là gỗ nhỏ, chất lượng thấp không có cơ hội xuất khẩu gỗ xẻ.

PGS-TS.Trần Thị Thu Hà (Viện Nghiên cứu và phát triển lâm nghiệp Việt Nam) phân tích, bản chất phát triển lâm nghiệp ở tỉnh còn dựa vào tiềm năng tự nhiên là chính.

Một nền lâm nghiệp còn thiếu đường nét kinh doanh và hiệu quả thấp.

Lực đẩy cho phát triển ngành chủ yếu phụ thuộc vào ngân sách nhà nước, trong khi lực hút của thị trường lâm sản và cả lực đẩy của xu thế xã hội hóa nghề rừng là khá mạnh.

Quản lý rừng chưa tiếp cận theo hướng bền vững và nâng cao giá trị sản xuất kinh doanh.

PGS-TS.Hà nêu giải pháp: “Tái cơ cấu ngành lâm nghiệp phải giải quyết đồng bộ theo chuỗi giá trị sản xuất nghề rừng và lâm nghiệp từ các khâu nhân giống, trồng, chăm sóc, khai thác, chế biến và tiêu thụ sản phẩm”.

Theo Sở NN&PTNT, tổng diện tích rừng trồng trên địa bàn tỉnh năm 2014 hơn 100.434ha.

Trong đó, diện tích rừng trồng gỗ lớn chiếm 97.644ha chủ yếu phục vụ cho nguyên liệu giấy, dăm gỗ (chu kỳ sản xuất 5 - 7 năm); diện tích rừng trồng gỗ lớn khoảng 2.790ha từ các dự án KFW6, WB3, rừng của Công ty CP Lâm đặc sản xuất khẩu Quảng Nam.

Năng suất rừng trồng bình quân trên địa bàn tỉnh với chu kỳ 7 năm khai thác là 70m3/ha là khá thấp so với các tỉnh lân cận.

Rừng chỉ kinh doanh với chu kỳ ngắn, ít ỏi diện tích rừng đạt chứng chỉ quốc tế FSC, gây lãng phí nguồn lực đất đai, hạn chế phát triển nghề rừng..

Điểm yếu nhất dẫn đến tình trạng nhỏ lẻ, chậm phát triển của ngành lâm nghiệp chính là khâu đầu tư sản xuất giống cây trồng.

Theo Sở NN&PTNT, đến nay cả tỉnh có 1 rừng giống chuyển hóa từ rừng tự nhiên A Vương (Đông Giang), 33 đơn vị đăng ký kinh doanh, sản xuất giống, 67 vườn ươm của hộ gia đình, cá nhân không đăng ký kinh doanh.

Các cơ sở sản xuất giống nhìn chung đạt chất lượng chưa cao.

Các vườn ươm mang tính hộ gia đình quy mô nhỏ lẻ chưa thống kê về sản lượng cây giống.

Sản lượng cây giống được sản xuất hàng năm trên địa bàn tỉnh ước 20 triệu cây các loại, nguồn giống cũng mua từ các địa phương khác.

Lượng giống phục vụ trồng rừng sản xuất không đảm bảo chất lượng.

Là tỉnh có thế mạnh phát triển kinh tế rừng, nhưng đến nay vẫn chưa có cơ sở sản xuất giống cây lâm nghiệp bằng nuôi cấy mô phục vụ kinh doanh, xưa nay chủ yếu dùng phương thức giâm hom và gieo ươm từ hạt.

Theo Viện Nghiên cứu và phát triển lâm nghiệp Việt Nam, nguồn giống trong tỉnh nghèo nàn về chủng loại, các loại cây bản địa trồng nhưng chưa kiểm soát nguồn gốc giống.

Đến nay, chỉ mới kiểm soát được 15 - 20% số lượng nguồn gốc giống ở các dự án trồng rừng thuộc vốn nhà nước.

Trong khi đó, việc sản xuất giống bằng công nghệ cao vẫn còn xa lạ; chưa xây dựng được chiến lược phát triển giống cây lâm nghiệp, bao gồm cả cây lâm sản ngoài gỗ.

Còn ngành nông nghiệp thừa nhận, công tác quản lý giống bất cập, tỉnh chưa có cơ chế phù hợp để khuyến khích người dân tham gia trồng rừng bằng giống có năng suất, chất lượng cao.

Phát triển rừng còn lẹt đẹt.

Người dân có đất trồng rừng còn khó khăn về kinh tế nên muốn sản xuất, thu hoạch ngắn hạn, trong khi đó Nhà nước chưa có chính sách hỗ trợ kinh doanh rừng trồng thâm canh.


Có thể bạn quan tâm

Sức Dân Làm Đường Sức Dân Làm Đường

Triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (NTM) cũng như các kế hoạch về xây dựng GTNT trong giai đoạn kinh tế gặp khó khăn, nguồn thu ngân sách không ổn định, vốn đầu tư công cắt giảm song với quyết tâm và kiên định mục tiêu đã đề ra, UBND tỉnh đã tập trung nguồn lực cho phát triển kết cấu hạ tầng giao thông nói chung và GTNT nói riêng. Riêng lĩnh vực GTNT, vốn đầu tư từ ngân sách tỉnh không bị cắt giảm mà luôn duy trì ổn định 60 - 90 tỷ đồng/năm.

27/01/2015
Cây Thuốc Giấu Trên Đỉnh Ngọc Linh Cây Thuốc Giấu Trên Đỉnh Ngọc Linh

Xã Trà Linh bây giờ vẫn còn là một miền đất cao vợi, xa xôi nhất ở Nam Trà My, mặc dù đường sá đã được thảm nhựa. Và các nóc làng người Xê Đăng sống quanh lưng chừng đỉnh núi Ngọc Linh cao hơn 2.589m, quanh năm mây phủ nên muốn lên đây chỉ có cách duy nhất là leo núi với những dốc cao dựng đứng. Người khỏe mạnh đi bộ từ trung tâm xã (đoạn cuối đường giao thông) về các thôn mất ít nhất 4 giờ.

27/01/2015
Vĩnh Long Hướng Tới Ổn Định Vùng Sản Xuất Cá Tra Vĩnh Long Hướng Tới Ổn Định Vùng Sản Xuất Cá Tra

Năm 2015, ngoài việc đẩy mạnh xây dựng vùng nuôi theo quy trình tiên tiến, Vĩnh Long sẽ tăng cường quản lý chất lượng cá tra giống theo quy chuẩn, tiêu chuẩn quốc gia; đẩy mạnh xúc tiến thương mại, phối hợp đấu tranh có hiệu quả với các rào cản thương mại và rào cản kỹ thuật.

28/01/2015
Nghề Nghề "Săn" Tôm Nhí

Nghề đánh bắt tôm nhí (tôm hùm con) từ lâu nay được biết đến là một trong những nghề có thu nhập "khủng" của ngư dân vùng biển. Song, để có nguồn thu nhập đó là điều không đơn giản. Có đi, nghe và thấy mới hiểu được những những khó khăn của ngư dân trong những đêm trắng mưu sinh trên biển "săn lộc trời"!

28/01/2015
Bước Ngoặt Thủy Sản Ở Bình Thuận Bước Ngoặt Thủy Sản Ở Bình Thuận

Sự chuyển biến đó là kết quả thực hiện các quyết định của Chính phủ về một số chính sách khuyến khích ngư dân khai thác hải sản vùng biển xa, và hiện nay là triển khai Nghị định 67 về phát triển thủy sản nhằm thúc đẩy sản xuất, ổn định đời sống ngư dân gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh biển đảo. Là kết quả khai thác lợi thế điều kiện tự nhiên để nuôi trồng và sản xuất tôm giống, cá nước ngọt, cá lồng bè trên biển.

28/01/2015