Nuôi tôm càng xanh bền vững tại Ấn Độ

Cải tiến biện pháp nuôi
Nuôi tôm càng xanh (TCX) truyền thống tại Ấn Độ đã tồn tại hàng chục năm nay và phát triển rất nhanh từ năm 1999.
Trong đó, bang Andhra Pradesh chiếm 87% diện tích và sản lượng TCX toàn Ấn Độ. Năm 2004 – 2005, Ấn Độ đẩy mạnh xuất khẩu TCX, đạt giá trị khoảng 84 triệu USD.
Những năm sau đó, sản lượng xuất khẩu giảm, do nhu cầu tiêu thụ nội địa tăng mạnh cùng sự xuất hiện của nhiều nhà cung cấp TCX trên thị trường, cạnh tranh gay gắt.
Nhu cầu tiêu thụ nội địa tại Ấn Độ cũng tăng mạnh, chiếm 50% tổng sản lượng tôm.
Ấn Độ có hơn 70 trại sản xuất giống với năng suất hằng năm khoảng 1.800 triệu ấu trùng TCX.
60% trại sản xuất tôm giống tập trung ở bang Andhra Pradesh.
Hầu hết các trại sản xuất tôm giống tại Ấn Độ đều có hệ thống xử lý và cung cấp nước sạch.Ấu trùng TCX được nuôi ở nước ngọt hoặc nước lợ có độ mặn nhỏ hơn 10 ppt có tỷ lệ tôm sống sót cao, tốc độ tăng trưởng nhanh hơn khi nuôi ở môi trường nước có độ mặn chuẩn 15 ppt.
Ấn Độ duy trì các trại nuôi tôm quy mô nhỏ (dưới 4 ha), quy mô vừa (4 – 8 ha) và quy mô lớn (trên 8 ha).
Mô hình nuôi thủy sản đơn trong ao đất vẫn phổ biến nhất, kết hợp nuôi ghép một số loài thủy sản khác để tận dụng thức ăn thừa và cải thiện môi trường nước.
Hiện, hộ nuôi tôm tập trung ở Andha Pradesh phổ biến hệ thống nuôi tôm toàn đực, trong đó con đực và con cái được lựa chọn bằng tay ngay sau khi ương.
Mô hình này đã khắc phục được sự khác biệt sức tăng trưởng và cải thiện năng suất, cũng như sự chênh lệch về tốc độ ăn của tôm với kích thước khác nhau và giúp giảm thiểu tác động của hành vi chiếm cứ lãnh thổ ở con đực.
Theo FAO, tổng sản lượng TCX thế giới năm 2012 đạt trên 900.000 tấn; trong đó, TCX Trung Quốc gần 400.000 tấn, chiếm 29%.
Giai đoạn 2006 – 2010, sản lượng tôm nuôi của Ấn Độ và Bangladesh giảm với tốc độ trung bình hằng năm 6% do ảnh hưởng của sự biến động diện tích, mật độ thả giống, số vụ nuôi không hợp lý và dịch bệnh, chủ yếu là bệnh đốm trắng.
Vì thế, năm 2010, sản lượng tôm của hai nước này chỉ còn khoảng 200.000 tấn; trong đó, TCX của Ấn Độ hơn 10.000 tấn, Bangladesh 23.240 tấn.
Hướng tới bền vững
Nuôi TCX xuất hiện ở Ấn Độ từ giữa những năm 1990, sau khi nhiều mô hình nuôi tôm nước mặn thất bại do ô nhiễm môi trường, dịch bệnh và xung đột chính trị tại nhiều quốc gia, dẫn đến các cuộc tranh chấp đường biển gay gắt và hình thành luật biển rất chặt chẽ (CAA2006).
Trong khi đó, hoạt động nuôi TCX lại có lợi thế liên quan môi trường, như không gây mặn hóa vùng nuôi, và do đó nó có thể tránh được một vài dịch bệnh như WSD – bệnh đốm trắng.
Tuy nhiên, sự buông lỏng quản lý hoạt động nuôi TCX (như chọn con giống kém chất lượng, mật độ thả quá dày khiến ao quá tải, điển hình là vùng Nellore) khiến hoạt động nuôi TCX thiếu bền vững, kém hiệu quả.
Nhưng thời gian gần đây, Ấn Độ đã áp dụng nhiều biện pháp nuôi cải tiến, là bước chuyển biến tích cực sang hoạt động nuôi tôm bền vững.
Bao gồm: nuôi đơn, sử dụng toàn đực, kết hợp với nông nghiệp, tôm – lúa luân canh, cải tạo các vùng đất nhiễm mặn ở phía bắc Ấn Độ và thiết kế ao nuôi tuần hoàn kín.
Các hộ nuôi tôm ở Andhra Pradesh cũng chủ động phòng tránh dịch bệnh, bảo vệ môi trường nuôi, để tạo ra sản phẩm sạch, thực sự an toàn cho con người và môi trường sống.
Theo các trại nuôi tôm tại Ấn Độ, nuôi TCX đơn tính đực có lãi cao hơn 60% so với nuôi tôm toàn cái và 63% so với nuôi lẫn.
Đặc biệt, quá trình nuôi ngắn hơn và mật độ thả giống thấp hơn, vì vậy ít gặp rắc rối về chất lượng nước và ô nhiễm.
Có thể bạn quan tâm

Tôm càng xanh là loài thủy sản không xa lạ với người dân Cà Mau. Từ khi chuyển dịch từ trồng lúa sang nuôi tôm sú, con tôm càng xanh ít được người dân chú trọng

Những năm qua, kinh tế thủy sản Cà Mau có bước tiến đáng phấn khởi, bước đầu đã thoát khỏi tập quán sản xuất lạc hậu. Tuy nhiên, để tăng tốc hơn nữa, đạt mục tiêu kim ngạch xuất khẩu 1,2 tỷ USD vào năm 2015

Thức ăn, phương pháp cho ăn: kiểm tra tôm sử dụng thức ăn và trọng lượng tôm hàng tháng để điều chỉnh khẩu phần ăn, tiến hành như nuôi tôm trong ao. Khẩu phần cho ăn chỉ cần 3% trọng lượng cơ thể sau một tháng đối với tôm giống tự nhiên và sau 4 tháng đối với tôm bột vì trong ruộng có nhiều thức ăn tự nhiên, mật độ thả thấp. Thức ăn nên rãi nhiều điểm xung quanh mương hay trong sàng ăn đặt trong ao.

Bệnh đốm nâu là bệnh của tôm càng xanh, xuất hiện quanh năm và tấn công vào tôm ấu trùng đến tôm trưởng thành. Nhưng khi bị bệnh thì tỷ lệ hao hụt của tôm ấu trùng cao hơm tôm lớn.

Tôm càng xanh Macrobrachium rosenberggi sống trong môi trường nước ngọt, có thể nuôi trong ao, ruộng cấy lúa, là sản phẩm thuỷ sản có giá trị kinh tế, có nhu cầu ở thị trường trong và ngoài nước. Tôm càng xanh đực và cái có sự khác biệt rõ rệt về tốc độ sinh trưởng, kích cỡ khi thu hoạch, thường cuối vụ nuôi tôm đực có kích thước lớn hơn đáng kể so với tôm cái. Việc tạo đàn tôm càng xanh toàn đực phục vụ nuôi tôm càng xanh có năng suất, kích thước lớn khi thu hoạch là mối quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và nuôi trồng thuỷ sản.