Nuôi Cá Lóc Cao Sản Trên Vùng Duyên Hải
Vùng đất duyên hải tỉnh Nghệ An chủ yếu là đất pha cát bạc màu, giá trị kinh tế khi trồng cây nông nghiệp rất thấp. Những năm gần đây, trên chính vùng đất ấy đã cho thu nhập rất cao (1 - 1,5 triệu đồng/m2) từ nghề nuôi cá lóc đen cao sản.
Tại phường Nghi Hòa (thị xã Cửa Lò) đất pha cát bạc màu, chủ yếu bỏ hoang hoặc chỉ trồng cây lấy củi trong khi đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Là người dân nơi đây, vốn xuất thân từ ngành Thủy sản, ông Nguyễn Long Vân đã tự bỏ kinh phí đi tham quan học tập trong và ngoài nước về cách nuôi trồng thủy sản.
Sau 2 năm ông nuôi thử nghiệm nhiều loại thủy sản tại vườn nhà, kết quả cho thấy cá lóc đen là vật nuôi phù hợp với điều kiện địa phương, có giá trị kinh tế hơn. Được sự giúp đỡ của Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Thủy sản, ông Nguyễn Long Vân đã triển khai các dự án: "Nghiên cứu, ứng dụng Tiến bộ khoa học-công nghệ, xây dựng mô hình nuôi thủy hải sản trên đất vườn ven biển Nghệ An" (2006), "Nuôi cá lóc cao sản hướng công nghiệp công nghệ mới" (2007) và "Công trình nuôi cá lóc đen qua đông" (2008).
Hiện tại, gia đình ông Long Vân có 10 bể xi măng với diện tích 600m2, tạo thành một vườn trại nuôi thủy sản nước ngọt quy mô lớn nhất phường, mỗi năm thu nhập hàng trăm triệu đồng.
Cá lóc đen là loại chóng lớn ở thời kỳ 1-2 tháng tuổi, tốc độ tăng trưởng trung bình 0,1- 0,15kg/con/tháng; tháng thứ 3 trở đi tăng trung bình mỗi tháng 0,15kg/con/tháng.
Chúng thường ăn lẫn nhau nên tỷ lệ hao hụt lớn. Qua thời gian nuôi ban đầu, ông Long Vân thường phân loại cá vượt đàn nuôi riêng. Về thiết kế bể nuôi: tường bể cao 0,80m, với diện tích khoảng 30m2 - 60m2 phù hợp với mật độ nuôi 60 con/m2. Nắm được đặc điểm của cá lóc đen ưa nhảy nên hệ thống chống cá thoát ra ngoài mỗi lần có mưa rào được chú trọng.
Dọc trên tường ao làm sẵn lỗ để cắm cọc sắt, đầu cắm vào lỗ cao 0,30m, còn lại 0,50m có hình cong ngã vào lòng ao với góc 1200. Căng theo hàng cọc bằng lưới pholytale hoặc ni lông A = 8cm, chiều cao 0,70m che kín hết tường ao. Bên trong tường còn lót một lớp xốp mỏng, mỗi lần cá nhảy không chạm vào tường gây thương vong.
Với thời tiết khắc nghiệt, ông Long Vân đã xây dựng hệ thống chống nóng vào mùa hè, trồng các loại cây leo như: mướp, hoa thiên lý, chanh leo, Làm giàn cao 2,5m phủ kín mặt ao. Cách chống nóng này vừa có thể bảo đảm an toàn cho cá, lại có thể cho thu hoạch từ sản phẩm của các loại cây trồng trên. Vào mùa hè, cần luôn bảo đảm nước trong ao sâu 0,40m - 0,50m.
Đặc điểm của cá lóc đen thích nghi vùng nhiệt đới, nếu nuôi vào mùa đông thì cần chú trọng đến hệ thống chống rét. Với mật độ nuôi 60 con/m2 có thể dùng gạch ngói tạo thành hang hốc cho cá trú ẩn. Tạo nguồn nước từ lòng đất sâu 7 - 10m bơm trực tiếp vào đầu ao, cuối ao mở van xả nước giá lạnh ra ngoài. Tuỳ theo nhiệt độ mà áp dụng thời gian thích hợp bơm và xả nước.
Tăng tính ham ăn, tăng sức đề kháng cho cá bằng vitamin B1 trộn lẫn vào thức ăn, ướp 1 - 2 tiếng đồng hồ với tỷ lệ 1kg thuốc/200kg thức ăn (thuốc do nhà máy chế biến thức ăn Bộ Thuỷ sản chế biến). Dùng bạt phủ kín mặt ao khi có sương muối. Công trình nuôi qua đông với năng suất cao đã góp phần bình ổn thị trường cá lóc trong dịp Tết Nguyên đán, người nuôi cá có thu nhập cao hơn.
Phòng chữa bệnh cho cá lóc đen là một khâu vô cùng quan trọng. Nên thay nước định kỳ 1 đến 2 lần/ngày ngay sau bữa ăn. Mỗi lần cho cá ăn, thức ăn phải rửa sạch, để ráo nước mới cho ăn. Làm vệ sinh lòng ao vào mỗi sáng. Hạn chế tối thiểu dùng kháng sinh cho cá.
Dùng thuốc thực vật chữa trị như lá, hoa, cây bông bụt cộng với cây cỏ mực, lá xoan đâu giã nhỏ, vắt lấy nước, trộn vào thức ăn cho cá theo tỷ lệ 1/2 bát nước thuốc trên 3 kg thức ăn. Cho ăn liên tục trong 3 - 4 ngày, bã thuốc rải vào nước trong ao (thời điểm này 2 - 3 ngày mới thay nước).
Nuôi cá lóc cao sản theo công nghệ sạch nguồn thức ăn chủ yếu là cá tạp (95%), cám: gạo, ngô, đậu nành, khô dầu (5%) trộn với cá đã xay nhỏ trong thời kỳ đầu; thời kỳ sau cắt khúc, lớn lên có thể để nguyên con. Mỗi ngày cho ăn 2 lần vào sáng và chiều. Đối với ao xi măng thả ngay vào đáy ao, nơi gần lỗ nước thải.
Sau mỗi lần cho ăn mở lu xả nước, quậy các cặn bã cho ra dần khoảng 5 phút rồi đóng lại. Với công nghệ này, mỗi năm gia đình ông Long Vân đã thu được 1.000.000 đồng/1m2. Mô hình này đã được nhân rộng ra từ 2 hộ năm 2006 lên 18 hộ năm 2007 và năm 2008 đã có đến 130 hộ, thành lập được Hiệp hội cá lóc Nghệ An.
Hiện nay, mô hình nuôi cá lóc cao sản đã mở rộng lên miền núi như hộ của anh Nguyễn Văn Quang (Tây Hiếu, Nghĩa Đàn) và hộ ông Nguyễn Văn Nhân (Hưng Nguyên). Đồng thời nhân rộng đến các tỉnh bạn như: Hà Tĩnh, Thanh Hóa và Hải Phòng...
Có thể bạn quan tâm
Tại khu vực ĐBSCL, kỹ thuật nhân giống cá lóc bằng cách dùng kích thích tố sinh sản đang được nông dân ứng dụng khá rộng rãi. Hiệu quả thu được từ nguồn giống này khá lớn: cứ 100% cá mẹ sinh sản, thu được 70 - 80% cá giống. Qua nghiên cứu cho thấy, yếu tố quyết định thành công là khâu chọn, nuôi vỗ cá bố mẹ và sử dụng kích thích tố đúng liều lượng.
Thị trường xuất khẩu cá tra, ba sa càng sôi động, chính là động lực thúc đẩy người chăn nuôi đầu tư mạnh, khiến diện tích các ao, hầm và mặt nước sông ở các tỉnh An Giang và Đồng Tháp tăng rất đang kể trong thời gian gần đây.
Nuôi ghép trong các ao cá khác để tận dụng hết tiểm năng của vực nước và lợi dụng cá quả để tiêu diệt các loài cá tạp khác cạnh tranh thức ăn, không gian và dưỡng khí làm cho cá nuôi phát triển tốt.
Căn cứ vào tính ăn của cá lóc có thể nuôi ghép với cá nuôi như cá mè, trôi, chép, trắm cỏ, rô phi, diếc để khống chế mật độ của những loài cá tạp và những cá sinh đẻ nhiều như cá rô phi, cá diếc nhằm đảm bảo thức ăn cho các loài cá kinh tế chủ yếu, cải tạo và nâng cao sức sản xuất các vùng nước. Tuy vậy, khi nuôi, cần tính cẩn trọng chú ý tỉ lệ, mật độ, kích cỡ cá thả.
Mùa vụ đẻ trứng từ tháng 4 - 7, rộ nhất trung tuần tháng 4 - 5. Cá tròn 1 tuổi, thân dài 20cm nặng 130g đã thành thục đẻ trứng. Số lượng trứng tuỳ theo cơ thể to nhỏ mà thay đổi. Cá nặng 0,5 kg số lượng trứng 8.000 - 10.000 cái, cá nặng 0,25 kg, số lượng trứng 4.000 - 6.000 cái.