Nhu Cầu Dinh Dưỡng Của Cây Lúa
- Nhu cầu về số lượng: Để tạo được 1 tạ thóc cần 2 kg N; 0,7- 0,9 kg P2O5 ; 3,2 kg K2O và 2kg Si. Vì vậy, để đạt năng suất hạt 6-7 tấn/ ha/ vụ cần bón cho lúa số lượng phân bón như sau: 8-10 tấn phân chuồng, 100 -120 kg N/ ha, 100 -120 kg P2O5/ ha và 30 -60 kg K2O/ ha. Ở đất phù sa sông Hồng, sông Cửu Long, kali chưa phải là yếu tố hạn chế năng suất. Đất phèn nặng, cần tăng phân lân lên 90 - 150 kg P2O5/ ha (Mai Văn Quyền, 1995).
Nguyên tắc bón phân:
Tuân thủ nguyên tắc 4 đúng:
- Đúng liều lượng
- Đúng chủng loại
- Đúng thời điểm
- Đúng kỹ thuật
Những căn cứ để quyết định bón phân cho lúa:
- Giai đoạn sinh trưởng của cây lúa - Thời tiết, khí hậu
- Đặc tính của đất - Lượng và loại phân bón
- Giống - Biện pháp canh tác
Bảng so màu bón phân đạm cho lúa
Thang so màu lá lúa chuẩn mới của IRRI có 4 ô, đánh số 2; 3; 4; 5. Thang màu giữa trị số 3 và 4 tương đương 3,5 là đạt trị số chuẩn. Màu lá lúa ở mức này là đủ đạm. Thang màu dưới 3,5 (lúa cấy), dưới 3 (lúa sạ) cần bón bổ sung phân có đạm
Liều lượng bón:
Bón đủ mức phân cần cho cây trồng để đạt được năng suất cao và có hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào trình độ thâm canh và khả năng đầu tư mà mức phân bón cũng phải thay đổi cho phù hợp. (Xem mục kĩ thuật bón phân cho các vùng)
Chủng loại và thời điểm bón:
Mỗi giai đoạn sinh trưởng của cây lúa có nhu cầu khác nhau về phân bón. Ruộng lúa ở giai đoạn đẻ nhánh cần nhiều phân đạm, nhưng bón đạm sau lúc lúa trỗ dễ làm bệnh khô vằn và bệnh bạc lá phát triển mạnh. Bệnh tiêm lửa thường phát sinh trên ruộng bón thiếu phân.
Giống lúa có thời gian sinh trưởng ngắn (
Giống lúa thâm canh cao (lúa lai): Bón lót sâu, bón thúc sớm.
Bón thúc cho lúa nhằm vào 2 thời kỳ chính: đẻ nhánh và làm đòng. Thời kỳ lúa làm đòng có thể bón thúc vào 1 hay 2 đợt ( bón đón đòng hoặc nuôi đòng).
Hiện tượng lốp đổ của cây lúa
Nguyên nhân: lúa lốp đổ là do bón nhiều đạm, bón không cân đối đạm, lân và kali .
Có 3 nguyên nhân gây nên hiện tượng lốp, đổ non:
- Do đặc tính của giống
- Do điều kiện ngoại cảnh ( thiếu ánh sáng, mưa nhiều, gió bão và đất quá tốt)
- Do kỹ thuật canh tác( mật độ, bón phân và tưới tiêu không hợp lý).
+ Hiện tượng ruộng lúa lốp: Diện tích lá quá cao, quá trình quang hợp và tích luỹ chất khô tiến hành không được bình thường, lượng gluxít ở lá bị giảm sút, từ đó giảm khả năng tổng hợp protit của cây.
+ Hiện tượng lúa đổ: lúa sinh trưởng quá mạnh, lá nhiều, thân cao và yếu. Do đó, sức chống đỡ của các đốt bên dưới không chịu nổi sức nặng của các bộ phận trên, dẫn đến hiện tượng lúa đổ non vào trước hoặc sau lúc trỗ.
Biện pháp phòng chống lốp, đổ:
- Chọn giống chịu phân và chống đổ ( thấp cây, chịu phân, lá ngắn hẹp và đứng)
- Bón phân đạm hợp lý và cân đối với lân và ka li.
Có thể bạn quan tâm
Bệnh lem lép hạt làm biến màu vỏ hạt lúa, có thể gây hại trên vỏ trấu hoặc bệnh trong hạt. Trên vỏ hạt, triệu chứng thay đổi tùy loài vi sinh vật gây hại và tùy mức độ nhiễm bệnh. Triệu chứng bệnh là những vết nhỏ màu nâu đen, hoặc là những mãng nâu bao phủ cả vỏ hạt
Trứng hình bầu dục, có vân mạng lưới rất nhỏ, đẻ cả ở mặt trên và mặt dưới lá (nhưng chủ yếu ở mặt trên lá). Trứng mới đẻ màu hơi đục, khi gần nở chuyển màu ngà vàng
Bọ xít dài trưởng thành khi hút dịch ở bông lúa non nếu bị khua động thì rơi ngày xuống và lẩn trốn ngay lập tức. Bọ xít có tính hướng yếu đối với ánh sáng, thường bay vào đèn những đêm có mưa gió, con đực vào bẫy, bả nhiều hơn con cái
Trứng hình đẻ thành ổ hình bầu dục, trên mặt phủ lớp lông màu vàng nhạt, ở giữa nhô lên. Mới đẻ trứng có màu trắng, sau chuyển ngà vàng, sắp nở màu đen. Sâu non đẫy sức màu trắng sữa, đầu màu nâu vàng. Chân bụng ít phát triển, móc bàn chân bụng có 28 cái xếp thành hình elip
Trên vỏ trấu của hạt lúa có những vết lốm đốm mầu nâu, nâu đen… làm cho hạt lúa bị lửng hoặc lép hoàn toàn. Bệnh xuất hiện và gây hại khá phổ biến ở tất cả các vùng trồng lúa của nước ta. Đặc biệt là ở những vụ lúa được gieo trồng và có thời gian trỗ chín rơi vào mùa mưa như vụ hè thu, thu đông, vụ mùa…