Nhím Biển: Giống Nuôi Mới

Thế giới hiện còn hơn 800 loài nhím biển, nhưng chỉ một số loài ăn được và thực sự có giá trị kinh tế như: Hemicentrotus pulcherrimus, Authoeidaris erassispina... Phần ăn được của nhím biển là tuyến sinh dục, vì mùi vị thơm ngon và có giá trị dinh dưỡng phong phú. Hằng năm, nhu cầu về nhím biển trên thị trường thế giới là tương đối lớn, nhím biển được xuất khẩu chủ yếu sang Nhật Bản, Pháp, Mỹ, Ôxtrâylia...
Chi phí nuôi tương đối thấp vì nhím biển sinh trưởng nhanh, tỷ lệ sống cao, ít mắc bệnh rất phù hợp cho những hộ nghèo ven biển. Hiện nay, nhiều nước trên thế giới có thể chủ động kiểm soát được các giai đoạn nuôi nhím biển điển hình như: Nhật Bản, Pháp, Mỹ, Ôxtrâylia... đã tiến hành nuôi với quy mô lớn và đạt được hiệu quả kinh tế cao. Một số vùng ở Trung Quốc như Liêu Ninh, Hải Nam, Quảng Đông bắt đầu phát triển việc nuôi nhím biển. Nhím biển có dạng hình cầu và bán cầu, vỏ ngoài cứng do chất đá vôi tạo thành. Bề mặt vỏ có rất nhiều gai cứng và các chân ống xếp thành 5 hàng đôi.
Miệng của nhím biển nằm ở mặt dưới do một lớp màng mỏng (gọi là màng bọc miệng) tạo thành và phồng lên thành hình cung. Đa số nhím biển sống ở đáy biển ấm, chỗ có đá và dưới san hô, thềm lục địa, từ vùng giữa triều trở lại. Ban ngày chúng vùi trong cát bùn, ban đêm ra hoạt động nhờ vào chân ống và gai vận động, bắt mồi nhờ bộ phận nhai nuốt. Nhím biển thường sống ở vùng biển có độ mặn tương đối cao, dòng triều lưu thông và điều kiện tránh gió tốt, nước biển trong sạch. Mực nước sâu trên 10m, độ mặn khoảng 28%o, nhiệt độ bảo đảm 12 độ C trở lên. Nhiệt độ sinh trưởng thích hợp của nhím biển là 18 – 22 độ C, do đó vào khoảng tháng 10 trở đi, khi nhiệt độ nước biển ổn định khoảng 20 độ C thì bắt đầu thả nuôi, nếu nhiệt độ nước xuống dưới 0 độ C thì nhím biển sẽ ngừng sinh trưởng.
Vùng nuôi phải có rong biển sinh trưởng và phát triển tự nhiên để dễ dàng cho việc bố trí các điều kiện nuôi. Tất cả các điều kiện trên rất phù hợp với vùng biển duyên hải Nam Trung bộ đặc biệt là Khánh Hoà. Trong điều kiện nuôi thương phẩm ta chọn những con giống cỡ nhỏ (cỡ 2 - 3cm), trên mỗi lồng nuôi hoặc bể nuôi nên thả 50 - 80 con. Sau khi nuôi từ 1-2 tháng, ta phải theo dõi sinh trưởng của nhím biển và tiến hành san thưa, mật độ thả không nên vượt quá 50 con trong một lồng hoặc bể nuôi.
Nhím biển là loài ăn thực vật, chủ yếu là các loài rong tảo biển như rong bẹ, rong đuôi ngựa. Trong quá trình nuôi, dựa vào các điều kiện của vùng nuôi để lựa chọn thức ăn phù hợp. Khi thả thức ăn phải dựa vào lượng thức ăn còn sót lại cũng như điều kiện khí hậu để quyết định lượng thức ăn định thả và số lần cho ăn. Khi nhiệt độ nước ở mức 20 độ C, có thể 2-3 ngày cho ăn 1 lần.
Mỗi lồng hoặc bè nuôi chỉ thả khoảng 0,5kg rong bẹ, hệ số thức ăn của nhím biển là 10-15 : 1. Nhím biển khi đói cũng ăn các loại rong tảo tạp khác, thậm chí ăn cả vẹm, động vật dạng rêu. Có thể lợi dụng đặc điểm này của nhím biển để triển khai nuôi ghép nhím biển và bào ngư. Cách nuôi này có thể làm sạch nước và loại trừ các sinh vật có hại bám trên bề mặt cơ thể bào ngư và trên các dụng cụ, thiết bị nuôi. Cho đến nay ở Việt Nam người nuôi vẫn mua giống ngoài tự nhiên và giống nhập từ Trung Quốc về nuôi do chưa tìm ra phương pháp sinh sản nhân tạo giống nhím biển này.
Nhưng hy vọng trong một tương lai không xa các nhà khoa học có thể chủ động kiểm soát được các giai đoạn nuôi nhím biển. Để tạo ra một giống nuôi mới cho ngành thuỷ sản, góp phần đa dạng hoá các đối tượng nuôi cho người dân, tạo ra nhiều sản phẩm và hàng hoá thuỷ sản xuất khẩu.
Có thể bạn quan tâm

Theo quy hoạch của ngành điện Trà Vinh, sản lượng điện cho nuôi tôm vỏn vẹn 670.000 kWh. Nhưng chỉ tính đến năm 2013, sản lượng điện thực tế phục vụ nuôi tôm đã lên tới 34 triệu kWh, gấp hàng chục lần quy hoạch. Sự lệch pha giữa quy hoạch nông nghiệp và quy hoạch điện đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất, kinh doanh của bà con.

Sau vụ việc cơ sở thu mua chuối ngâm hóa chất của ông Hoàng Phú Tới bị xử phạt, người trồng chuối ở Tịnh Hà (Sơn Tịnh) lại bắt đầu một mùa chuối mới với đầy hy vọng. Tuy vậy, nỗi lo mất mùa vẫn đè nặng lên người trồng chuối nơi đây.

Australia là một trong những nước có mức tiêu thụ thuỷ sản bình quân đầu người tăng từ 10kg/năm vào những năm 1990 lên khoảng 25kg/năm hiện nay. Tuy nhiên, mức tiêu thụ bình quân này vẫn còn thiếu 40% so với khuyến cáo của các tổ chức về sức khoẻ của nước này, nên, nhu cầu tiêu thụ thuỷ sản của Australia sẽ còn tăng hơn nữa.

Cùng với đó, một số hộ dân trong xã đã có sẵn chuồng trại và kinh nghiệm chăn nuôi dê. Trên thực tế, chăn nuôi dê đã phát triển ở xã từ khoảng 10 năm trở lại đây. Tuy nhiên, do chưa được quy hoạch cụ thể về vùng chăn nuôi, đa số các hộ đều nuôi dê tự phát và chăn thả tự do ảnh hưởng đến sản xuất nông, lâm nghiệp. Thêm vào đó, để bắt đầu nuôi dê cần khá nhiều vốn vì giá dê giống luôn ở mức khá cao, một con dê sinh sản nặng 30kg có giá khoảng 3-4 triệu đồng.

Đưa chúng tôi đi thăm khu trang trại, ông Ngọc vui vẻ cho biết, đối với ông, nuôi hươu, nai không phải là mới mẻ. Từ năm 2000, nhà ông đã nuôi hươu, nai rồi, nhưng lúc đó do điều kiện kinh tế eo hẹp nên chỉ nuôi được 4 con hươu, nai để tận dụng diện tích 2ha đất đồi của nhà. Qua quá trình nuôi, ông nhận thấy 2 loài động vật này phát triển tốt, ổn định và phù hợp với điều kiện khí hậu ở đây.