Nguyên Nhân Gây Hội Chứng Chết Sớm Ở Tôm
Sau nhiều tháng điều tra, nhóm nghiên cứu do Donald Lightner tại Đại học Arizona đã xác định nguyên nhân gây hội chứng chết sớm ở tôm (EMS), hay còn gọi là hội chứng hoại tử gan tuỵ cấp (AHPNS).
Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng, EMS/AHPNS là do một tác nhân vi khuẩn, vi khuẩn phát triển trong đường tiêu hoá của tôm, tạo ra độc tố làm mất chức năng và phá huỷ mô của các cơ quan tiêu hoá của tôm như gan tụy, bệnh lây truyền qua đường miệng nhưng không ảnh hưởng đến con người.
Nhóm nghiên cứu của Lightner xác định tác nhân gây hội chứng EMS/AHPNS là một dòng vi khuẩn tương đối phổ biến Vibrio parahaemolyticus, đã bị nhiễm bởi một loại vi-rút được biết đến như một thể thực khuẩn, nó sẽ tạo ra một loại độc tố cực mạnh.
ột hiện tượng tương tự xảy ra trong các dịch tả bệnh của con người, nơi một thể thực khuẩn làm cho các vi khuẩn Vibrio cholerae có khả năng tạo ra độc tố gây tiêu chảy đe doạ tính mạng của người nhiễm bệnh tả.
Nghiên cứu tiếp tục phát triển các test xét nghiệm chẩn đoán để phát hiện nhanh chóng các tác nhân gây bệnh EMS/AHPNS sẽ cho phép cải thiện quản lý dịch bệnh của các trại giống và ao thương phẩm, đồng thời tìm ra một giải pháp lâu dài cho căn bệnh này. Điều này cũng sẽ cho phép đánh giá tốt hơn về rủi ro liên quan đến nhập khẩu tôm đông lạnh hoặc các sản phẩm khác từ các nước bị ảnh hưởng bởi EMS.
Theo Tổ chức Nông Lương Liên hiệp quốc (FAO), hội chứng EMS không có nguy cơ đối với sức khoẻ con người, chỉ có tôm dễ bị tổn thương. EMS ảnh hưởng đến 2 loài tôm thường được nuôi nhiều trên thế giới là tôm sú và tôm chân trắng.
Các dấu hiệu lâm sàng của bệnh bao gồm: tôm lờ đờ, bơi chậm, ngừng ăn, dạ dày và ruột trống rỗng, vỏ mỏng, màu sắc nhợt nhạt, tăng trưởng chậm, gan tuỵ xanh xao, nhủng và teo. Thông thường, sau thời gian thả nuôi 30 ngày tôm bắt đầu chết dần.
Để đối phó với hội chứng tôm chết sớm EMS, FAO khuyến cáo, đối với người nuôi tôm, phụ thuộc vào sự hình thành an toàn sinh học và thực hành nuôi thuỷ sản tốt nhất sẽ giúp ngăn ngừa các vấn đề liên quan đến EMS.
Chúng bao gồm: tôm giống được sử dụng để thả nuôi nên được mua từ người bán có uy tín, phải kèm theo giấy chứng nhận kiểm dịch sức khoẻ động vật hay giấy xét nghiệm chất lượng tôm giống.
Nên sử dụng thức ăn có chất lượng cao, luôn giữ cho môi trường nước ao nuôi ổn định ở mức tối ưu, giữ cho tôm khoẻ mạnh, tránh bị gây sốc.
Tôm giống mới thả nuôi cần phải theo dõi chặt chẽ, có bất cứ vấn đề gì liên quan đến sức khoẻ, bệnh tật phải báo cho cơ quan chuyên môn.
Có thể bạn quan tâm
Theo số liệu từ trung tuần tháng 10 đến nay, nông dân trong thị xã đã xuống trên 100 ha hành tím sớm, rải rác ở một số địa phương như phường 2, Vĩnh Hải, Vĩnh Phước, Lai Hòa; trong đó, Vĩnh Phước xuống giống nhiều nhất trên 80 ha. Ngoài các địa phương nói trên thì một số hộ xuống giống vào cuối tháng 9/2014, đến nay hành đã gần 1 tháng tuổi, với hi vọng hành bán được giá cao khi thu hoạch.
Trạm Bảo vệ thực vật huyện Tuy An (Phú Yên) cho biết, hiện rệp sáp bột hồng gây hại trên cây sắn trồng ở niên vụ 2014 - 2015 tiếp tục diễn ra. Qua kiểm tra thực tế, đơn vị này đã phát hiện rệp sáp bột hồng gây hại 20ha sắn trồng tại các xã An Hòa, An Nghiệp, An Xuân, tỉ lệ gây hại từ 20% đến 50%.
Đứng trước ruộng sắn nước xanh um lá, anh Nguyễn Minh Tuấn (thôn Trung Hiệp 2, xã Cam Hiệp Bắc) cho biết, ruộng sắn nước nhà anh trông khá đẹp, nhưng khi nhổ thử thì củ quá nhỏ, năng suất ước 2,5 tấn/sào nên người mua chỉ trả giá 3 triệu đồng/sào. Với chi phí 5 triệu đồng/sào, anh lỗ khoảng chục triệu đồng.
Ngoài bán quả sa nhân, thời gian qua, nông dân xã Phìn Ngan còn có thêm thu nhập từ bán cây sa nhân giống cho nhân dân các xã trên địa bàn huyện Bát Xát và một số huyện khác của tỉnh. Thậm chí, nông dân tỉnh khác cũng đến Phìn Ngan tìm mua cây sa nhân tím về trồng. Giá mỗi cây giống từ 3.000 - 5000 đồng. Tuy chưa có thống kê đầy đủ, nhưng ước tính, tiền bán cây sa nhân giống của nông dân xã Phìn Ngan năm nay đạt trên 400 triệu đồng.
Mục tiêu của việc thử nghiệm để xác định khả năng chịu mặn của từng giống lúa, từ đó đánh giá mức độ chịu mặn và khả năng thích nghi với từng vùng đất chuyển đổi lúa - tôm, nhằm khuyến cáo nông dân thực hiện trong các vụ mùa tới, góp phần đa dạng hóa cơ cấu giống lúa chịu mặn, thích nghi, có năng suất, thời gian sinh trưởng ngắn ngày, khắc phục tình trạng thiếu hụt giống, giá thành cao.