Mô Hình Liên Kết Sản Xuất Và Tiêu Thụ Tôm Càng Xanh Hiệu Quả

Ấp Phú Đông Thượng, xã Bình Khánh Đông (Mỏ Cày Nam, Bến Tre) nằm cặp theo sông Vàm Cái Quao và sông Hàm Luông. Toàn ấp có khoảng 110ha đất tự nhiên, trong đó có 96ha đất sản xuất nông nghiệp. Ấp có 332 hộ, với 1.156 nhân khẩu, đa số sống bằng nghề nông, chủ yếu trồng cây dừa kết hợp chăn nuôi. Toàn ấp hiện có 25% hộ khá giàu, 60% hộ trung bình và hộ nghèo chiếm 12%. Đặc biệt, ấp có Tổ liên kết sản xuất và tiêu thụ tôm càng xanh trên diện tích 196ha mặt nước rất hiệu quả.
Để khai thác thế mạnh trồng xen, nuôi xen trong vườn dừa, năm 2007, UBND xã triển khai thực hiện Đề án trồng xen cây ca cao và nuôi tôm càng xanh trong vườn dừa để tăng thu nhập, tạo việc làm nhàn rỗi cho người nông dân. Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh xã đứng ra tổ chức vận động và thành lập mô hình nuôi tôm càng xanh liền canh, liền cư. Ban đầu, tổ có 6 thành viên, sau 2 năm thực hiện mô hình đạt hiệu quả cao nên ấp đề xuất xã thành lập Tổ liên kết sản xuất và tiêu thụ tôm càng xanh canh tác trên 196ha diện tích mặt nước.
Từ năm 2009 đến nay, được sự quan tâm đặc biệt của UBND xã, các cấp hội, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tổ chức tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật như cải tạo ao nuôi, kỹ thuật chăm sóc, cách chọn giống tốt và chăm sóc bảo quản. Chi cục Phát triển nông thôn huyện đã hỗ trợ cho Tổ kinh phí sinh hoạt hàng tháng 200 ngàn đồng, thời gian hỗ trợ là 2 năm.
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hỗ trợ 40% tiền mua tôm giống, 20% chi phí thức ăn với số lượng mua tôm giống là 56.000 con/vụ. Nhờ vậy, Tổ liên kết hoạt động ổn định, đúng hướng. Tuy nhiên, qui mô hoạt động của Tổ còn nhỏ nên chưa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế tập thể. Sản lượng tôm nuôi còn thấp, bình quân mỗi năm bán ra thị trường từ 50 - 100kg tôm thịt. Với giá bình quân từ 120.000 - 150.000 đồng/kg, sau 8 - 10 tháng nuôi, trừ hết các khoản chi phí, Tổ còn lời 30 - 40%.
Ngoài việc hỗ trợ của các tổ chức, ngành chủ quản, Tổ đã vận động các tổ viên đóng góp quỹ tương trợ giúp các thành viên về thức ăn, con giống. Tổ có 2 máy bơm nước sên bùn cải tạo ao nuôi sau mỗi vụ thu hoạch. Ngoài ra, Tổ còn phát động nông dân tham gia chương trình trồng xen ca cao trong vườn dừa để tăng thu nhập. Sau khi vào tổ liên kết, nông dân được tập huấn kiến thức về khoa học kỹ thuật trong nuôi trồng thủy sản nước ngọt, thể hiện ngày càng rõ nét hơn mối liên kết giữa Nhà nước, nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp.
Qua 4 năm, 6 thành viên đã thoát nghèo và nhiều hộ trong tổ có việc làm với thu nhập ổn định.v
Có thể bạn quan tâm

Gần như là nơi duy nhất ở Việt Nam hội tụ những yếu tố để phát triển cây nho, nhưng thương hiệu nho Ninh Thuận lại chưa có một vị thế xứng tầm.

Ngoài các biện pháp kỹ thuật đang được phổ biến như "một phải năm giảm" (phải dùng giống lúa xác nhận, giảm giống, giảm phân đạm, giảm thuốc BVTV, giảm nước tưới và giảm thất thoát sau thu hoạch), mô hình còn áp dụng tuyệt đối không dùng bất cứ hóa chất nào để xử lý hạt giống trước lúc gieo sạ.

Là người tiên phong đưa giống cây thanh long ruột đỏ về vùng đất miền núi Tràng Xá, anh Chu Văn Hợp, xóm Khuôn Ruộng, xã Tràng Xá (huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên), hiện là chủ nhân của 300 gốc cây thanh long ruột đỏ đang đơm hoa kết trái, mang lại thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm. Đây là mô hình sản xuất mới, phù hợp với vùng đất miền núi khô cằn, đang được nhiều hộ dân học tập theo.

Nhờ ứng dụng cơ giới vào khâu làm đất và biết sử dụng phân bón hợp lý, hàng trăm hộ dân người Hrê trồng mía ở huyện miền núi Ba Tơ đã nâng năng suất cây mía lên gấp 2 lần, hạn chế được tình trạng đất bị xói lở, bạc màu.

Gắn chóa đèn pin lên trán, một tay cầm cây móc, một tay thò vào hộc lôi con rắn hổ to đùng còn đang phùng mang phù phù ra, anh La Minh Vũ cười xòa: “Con này cho thu nhập khoảng 7 triệu đồng đấy”. Thấy tôi tròn xoe mắt kinh ngạc, anh chiết tính: con này cỡ hai ký rưỡi, mỗi ký giá một triệu đồng; mỗi năm nó đẻ hai lứa, mỗi lứa trung bình 15 trứng, giá mỗi trứng 300.000 đồng.