Mô Hình Kinh Tế Gia Trại Bền Vững
Chúng tôi thật sự ấn tượng trước mô hình kinh tế gia trại phát triển theo hướng bền vững của ông Huỳnh Miên. Hệ thống gia trại được đầu tư xây dựng nề nếp phản ảnh tinh thần nỗ lực vươn lên làm giàu từ nông nghiệp, chung tay xây dựng nông thôn mới của người nông dân có gần nửa thế kỷ gắn bó với vùng đất xã Phước Sơn, huyện Ninh Phước.
Thấy chúng tôi đến thăm gia trại, ông Huỳnh Miên dừng tay cột cành táo đang mùa đơm bông kết trái. Ông ân cần pha ấm trà ngon mời khách dưới tán vườn xoài tỏa bóng mát rượi. Trao đổi với người chủ gia trại tròn sáu mươi sáu tuổi đời, chúng tôi được biết ông quê gốc ở xã Cát Khánh, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Thời trai trẻ, ông phiêu bạt vô xã Phước Sơn lập gia đình rồi ở lại sinh cơ lập nghiệp. Đức tính cần cù chịu thương chịu khó làm ăn, ông lần hồi tích lũy vốn liếng đầu tư xây dựng gia trại phát triển theo hướng bền vững có thu nhập ổn định bảo đảm cuộc sống gia đình no ấm.
Gia trại Huỳnh Miên có 7 sào đất tại thôn Bảo Vinh được ông “quy hoạch” bài bản với 4,5 sào trồng táo; 1,5 sào trồng xoài xen canh cỏ voi; 500 mét vuông cất chòi rẫy và chuồng trại chăn nuôi gia súc; 500 mét vuông đào ao chứa nước chủ động bơm tưới cho toàn bộ khu vườn. Ông vừa xây dựng chòi rẫy khang trang rộng trên 50 mét vuông có điện, nước sạch sinh hoạt trị giá trên 120 triệu đồng. Hàng ngày, vợ chồng ông gắn bó chăm lo gia trại sạch sẽ, tinh tươm. Năm 2008, ông từ thôn Phước Thiện lên Bảo Vinh khởi nghiệp chăn nuôi với 30 con cừu giống.
Đến nay, đàn gia súc của ông lên đến 140 con, gồm 100 con cừu và 40 con dê Bách Thảo. Mỗi năm, ông xuất bán 20- 30 con dê cừu đực thu nhập 40- 60 triệu đồng. Nguồn thức ăn gia súc được tận dụng từ cành táo, cỏ trồng trong vườn và đào giếng bảo đảm nguồn nước uống cho đàn gia súc trong mùa khô hạn. Riêng 4,5 sào táo tơ được ông đầu tư phân bón, chăm sóc chu đáo cho sản lượng mỗi năm trên 30 tấn trái. Thương lái đến tận vườn thu mua táo trái giá trung bình 5-7 ngàn đồng/kg, ông có thu nhập 150- 200 triệu đồng. Lợi nhuận từ vườn táo đem lại hàng năm là nguồn thu nhập chính của gia đình ông.
Trước đây, gia trại xây dựng trên vùng đất khô hạn ăn nước trời nên điều kiện canh tác rất khó khăn. Đầu năm 2009, ông Huỳnh Miên liên kết với người anh bà con đầu tư 100 triệu đồng thuê máy đào ao rộng 500 mét vuông, sâu 10 mét xây bờ kè chống sạt lở. Ông sử dụng mô tơ điện bơm tưới khu vườn xanh tốt quanh năm. “ Bà con nông dân muốn làm ăn bền vững thì đất đai phải chủ động tưới. Đồng thời tích cực học hỏi áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào canh tác hoa màu, chăn nuôi gia súc bảo đảm mùa màng thắng lợi. Cuộc sống gia đình no ấm góp phần cùng chính quyền địa phương xây dựng thành công các tiêu chí nông thôn mới”, chỉ tay xuống lòng ao mùa khô vẫn đầy ắp nước, ông Huỳnh Miên cười hiền hậu chia sẻ.
Có thể bạn quan tâm
Đã hơn 20 năm qua, người dân Vũng Liêm đã gắn bó và sinh sống cùng cây lác. Thu nhập kinh tế từ 1 công đất lác hơn hẳn 1 công đất lúa. Lác dễ trồng, một lần trồng có thể thu hoạch được trong 5 - 6 năm, cá biệt có diện tích tốt sẽ thu hoạch được gần 10 năm. Cứ 5 tháng thì thu hoạch một lần.
Đến cuối năm 2014, tổng diện tích cà phê trên địa bàn huyện Khánh Sơn là 536ha, trong đó, 320ha đang trong thời kỳ thu hoạch. Tuy nhiên, theo ông Lê Anh Quang, cán bộ khuyến nông xã Sơn Bình, do thời tiết diễn biến bất thường, cà phê lâu năm trổ bông đúng thời điểm nhiều mưa nên năng suất không cao, thậm chí giảm so với mọi năm.
Theo Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, diện tích gieo trồng lúa toàn tỉnh Bình Thuận hàng năm trên 100 ngàn ha, năng suất bình quân năm 2014 là 56,3 tạ/ha, sản lượng ước đạt trên 659 ngàn tấn. Vùng sản xuất lúa trọng điểm của tỉnh tập trung ở các huyện Hàm Thuận Bắc, Bắc Bình, Tánh Linh, Đức Linh.
Đồng ruộng được dồn đổi, chỉnh trang, kiến thiết tạo nhiều thuận lợi cho thâm canh và áp dụng cơ giới hóa. Nhiều tiến bộ kỹ thuật mới về giống, nhiều mô hình và cách làm hay, hiệu quả đã được khẳng định trong thực tiễn qua nhiều năm là cơ sở để áp dụng và nhân rộng nhanh.
Trên con đường bê tông phẳng phiu, uốn lượn qua những nương chè xanh ngát, chúng tôi đến nhà ông Trần Duy Hưng ở xóm Cây Thị, một trong những hộ làm chè Đông lâu năm của xã. Ông cho biết : Vì chủ động được nguồn nước tưới nên năm nào nhà tôi cũng làm 10 sào chè vụ đông.