Kỹ thuật ương tôm càng xanh trong ao nổi lót bạt
Loài này (cũng như các loài khác thuộc chi Macrobrachium) có tầm quan trọng thương mại nhờ các giá trị dinh dưỡng của nó như là một nguồn thực phẩm có giá trị.
Trong khi loài này được coi như một loài động vật thân giáp nước ngọt thì giai đoạn ấu trùng của nó lại phụ thuộc vào độ lợ của nước.
Khi nó chuyển qua giai đoạn như là sinh vật phù du và trưởng thành thì nó lại hoàn toàn sống trong nước ngọt.
1.Xây dựng bể ương:
– Bể ương có thể xây dựng bằng cách đắp đất hoặc xây tường gạch.
– Kích thước: Dài : 10-12 m; Rộng : 3 – 5 m; Cao : 0,4-0,6 m.
– Toàn bộ bể được phủ một lớp bạt chống thấm đê giữ nước (nếu bể ương chưa được tô kỹ, bị rò rỉ).
Mỗi bễ (35 –50 m2) cần lắp đặt 10-20 vòi thổi khí, 5-7 tàu lá dừa để àm giá thể trú ẩn cho tôm.
– Nước cho vào bể phải đảm bảo chất lượng, không có những động vật phù du, cá dữ.
Nếu dùng nước máy sinh hoạt thành phố thì phải loại bỏ chlorine còn tồn dư trong nước.
2.Ương tôm:
– Nước sau khi được cấp vào bể một ngày thì có thể thả post để ương – Mật độ thả ương: 500 con/m2 hoặc 1000-1500con/m2 (có sục khí liên) – Mức nước giữ trong bể từ 0,3-0,4 m.
Định kỳ 5-7 ngày thay nước một lần, mỗi lần thay từ 50-70% lượng nước trong bể
– Thức ăn cho tôm trong trường hợp này tốt nhất là thức ăn công nghiệp và trùn chỉ để hạn chế làm bẩn nước bể ương, hoặc dùng thức ăn chế biến từ cá và trứng gà theo công thức trên
– Lượng thức ăn từ 10-20% trọng lượng tôm.
Cho ăn 4- 5 lần trong ngày – Sau một tháng ương, tôm đạt kích cỡ 2-3cm thì thu hoạch san thưa, nếu muốn ương sang tháng thứ hai thì mật độ ương lúc này nên giảm một nữa so với ban đầu.
3.Quản lý, chăm sóc:
– Hàng ngày nên kiểm tra tình trạng dử dụng thức ăn của tôm để cho tôm ăn đầy đủ, tránh dư thừa.
Thức ăn thừa dễ gây dơ đáy bể môi trường nước bị ô nhiễm và phải siphông đáy và thay nước nhiều hơn.
– Phải kiểm tra đá bọt và thổi khí, đảm bảo việc thổi khí liên tục theo yêu cầu, nhất là vào ban đêm.
– Dự phòng máy phát điện hoặc bình Acquy để chạy máy thổi khí khi bị cúp điện.
Có thể bạn quan tâm
Đánh Thức Nguồn Lợi Tôm Càng Xanh Tôm càng xanh là loài thủy sản không xa lạ với người dân Cà Mau. Từ khi chuyển dịch từ trồng lúa sang nuôi tôm sú, con tôm càng xanh ít được người dân chú trọng
Tạo Bước Đột Phá Từ Nuôi Tôm Công Nghiệp Những năm qua, kinh tế thủy sản Cà Mau có bước tiến đáng phấn khởi, bước đầu đã thoát khỏi tập quán sản xuất lạc hậu. Tuy nhiên, để tăng tốc hơn nữa, đạt mục tiêu kim ngạch xuất khẩu 1,2 tỷ USD vào năm 2015
Nuôi Tôm Càng Xanh Trong Ruộng Lúa Thức ăn, phương pháp cho ăn: kiểm tra tôm sử dụng thức ăn và trọng lượng tôm hàng tháng để điều chỉnh khẩu phần ăn, tiến hành như nuôi tôm trong ao. Khẩu phần cho ăn chỉ cần 3% trọng lượng cơ thể sau một tháng đối với tôm giống tự nhiên và sau 4 tháng đối với tôm bột vì trong ruộng có nhiều thức ăn tự nhiên, mật độ thả thấp. Thức ăn nên rãi nhiều điểm xung quanh mương hay trong sàng ăn đặt trong ao.
Bệnh Đốm Nâu Ở Tôm Càng Xanh Bệnh đốm nâu là bệnh của tôm càng xanh, xuất hiện quanh năm và tấn công vào tôm ấu trùng đến tôm trưởng thành. Nhưng khi bị bệnh thì tỷ lệ hao hụt của tôm ấu trùng cao hơm tôm lớn.
Nghiên Cứu Sản Xuất Tôm Càng Xanh Toàn Đực Tôm càng xanh Macrobrachium rosenberggi sống trong môi trường nước ngọt, có thể nuôi trong ao, ruộng cấy lúa, là sản phẩm thuỷ sản có giá trị kinh tế, có nhu cầu ở thị trường trong và ngoài nước. Tôm càng xanh đực và cái có sự khác biệt rõ rệt về tốc độ sinh trưởng, kích cỡ khi thu hoạch, thường cuối vụ nuôi tôm đực có kích thước lớn hơn đáng kể so với tôm cái. Việc tạo đàn tôm càng xanh toàn đực phục vụ nuôi tôm càng xanh có năng suất, kích thước lớn khi thu hoạch là mối quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và nuôi trồng thuỷ sản.