Kỹ Thuật Nuôi Cá Chình
I. Đánh Bắt Và vận Chuyển Cá Chình Hương:
1. Cách bắt cá chình con
Muốn đánh bắt cá chình con trongtự nhiên, bạn có thể dụng dụng 3phương pháp sau:
Do cá chình có tập tính hướng quang, nên ban đêm bạn dùng đèn để hấp dẫn cá tập trung lại rồi lấy vượt vớt cá.
Ở những cửa sông có cá chình con bơi từ biển vào, bạn đặt lưới đăng cố định để đánh bắt chúng.
Sử dụng thuyền lưới vây đánh bắt cá ở cửa sông ven. Cách này có thể bắt được nhiều loại cá, kể cả cá chình con.
2. Cách vận chuyển cá chình con
Muốn vận chuyển cá chình con từ nơi khai thác đến nơi ương giống bạn sử dụng hai cách vận chuyển sau:
a. Vận chuyển bằng khay gỗ.
- Bạn làm khay có kích thước 60 x 40 x 15cm (dài x rộng x cao). Phần dưới đáy khay, bạn đục lỗ và lót lưới cho cá khỏi lọt ra ngoài. Kế tiếp bạn chồng 5-6 khay chồng lên nhau, khay trên cùng đựng nước đá. Trong lúc vận chuyển, nước đá chảy xuống những khay phía dưới vừa hạ nhiệt độ vừa giữ độ ẩm cho cá và giúp cá hô hấp.
- Tùy theo số lượng cá vận chuyển nhiều hay ít, mà bạn sắp xếp từng chồng khay kế bên nhau. Nếu cá có màu trắng ( cá rất nhỏ) mỗi khay có thể vận chuyển 1,5 kg cá. Nếu cá lớn hơn ( đã chuyển sang màu đen), mỗi khay bạn để 2 - 4kg cá.
b. Vận chuyển bằng túi nilôn có bơm ôxy
Bạn sử dụng túi có 2 lớp, kích thước 33 x 33 x 70cm. Bạn đỗ nước vào những túi này, cho cá vào rồi bơm khí ôxy vừa phải (túi nhiều hay quá ít oxy đều không có lợi cho cá). Kế tiếp, bạn đóng miệng túi lại, cho vào thùng giấy kích thước 66 x 33 x 36 cm. Mỗi thùng giấy bạn hai túi nilon, ở giữa hai túi này bạn đặt một túi đựng nước đá để làm hạ nhiệt độ cho cá.
Tùy theo số lượng cá mà bạn sử dụng nhiều hay ít túi. Những túi bạn này cho lên xe hoặc đưa xuống ghe để vận chuyển…
Xin lưu ý, nếu sử dụng cách này, bạn chỉvận chuyển trong 24 giờ, quá thời hạn có thể nguy hiểm cho sự an toàn của cá. Ngoài ra bạn cần thực hiện đúng những yêu cầu sau:
Trước khi vận chuyển 1 ngày, bạn cần nhốt cá vào giai, đặt chỗ nước trong, có dòng chảy liên tục để cá quen môi trường chật hẹp trong vòng 24 giờ; đặt biệt trong giai đoạn này, bạn không cho cá ăn gì cả.
Trước khi bỏ cá vào túi, bạn cần hạ nhiệt độ cho cá xuống 8-10oC. Nhiệt độ hạ dần, mỗi lần không vượt quá 5 - 8oC.
Mỗi túi chỉ chứa một mật độ cá như kể trên không nên nhồi nhét quá mức.
Không đặt vật nặng lên trên túi đựng cá.
Cần tính toán thời gian vận chuyển. Nếu thời gian vận chuyển quá dài, bạn phải mở túi ra thay nước, bơm khí ôxy mới vào. Nếu thời gian vận chuyển quá dài thì mật độ vận cá phải giảm tương ứng.
Khi vận chuyển đến nơi, bạn không nên trút vội cá xuống ao. Hãy thả từng túi nilon xuống ao khoảng 15 phút để nhiệt độ nước trong ao và túi bằng nhau mới mở túi, cho cá từ từ thoát ra ngoài.
II. Cách nuôi cá trình hương lên cá giống
Đây là cách ương cá con đánh bắt trong tự nhiên có trọng lượng 0,5 - 1 g/con thành cân nặng 10 - 15 g/con.
Bạn tiến hành tuần tự sau:
1. Tiêu độc cho cá
Bạn ngâm cá vào trong dung dịch nước muối 5 - 7%o, từ 1 - 2 ngày, hoặc 15 - 30 %o từ 15 - 30 phút. Ngoài ra bạn có thể sự dụng 1 trong 3 loại hoá chất: KMnO4 : 1 - 3 ppm; CuSO4 : 0,3 - 0,5ppm; Formalin : 1 - 3 ppm.
2. Ao ương.
Bạn sử dụng ao ương cho thứ nhất diện tích 50-100m2, nước sâu từ 50-60 cm; ao ương cho tháng thứ hai 100 - 200m2, nước sâu từ 70 - 80cm; ao ương cho tháng thứ ba 300 - 400m2, nước sâu từ 70 - 80 cm.
3. Nhiệt độ nước ao
Nếu bạn duy trì được nhiệt độ nước liên tục trong vòng 25 – 290C. Tốt nhất là khoảng 28oC và quản lý chăm sóc tốt, tỷ lệ sống có thể đạt 80 - 95% trong đó có thể 20% cá hương được nuôi sẽ thành cá thương phẩm.
Xin lưu ý, bạn không nên để nhiệt độ nước trong ao hạ xuống dưới 22oC, vì như thế cá dễ bị bệnh nấm thuỷ mi bám quanh thân.
4. Mật độ thả cá
Mật độ tốt nhất để thả ương cá hương là 0,3 - 0,5 kg cá/m3 nước ao (nước bể) ương.
5. Cách cho ăn
Trong 2 ngày đầu tiên thả cá, bạn cho ăn Cladocera.
Ngày thứ 3 và thứ 4: Cho cá ăn hồng trần 3 lần (sáng, chiều, tối), lượng hồng trần bằng 30 – 35 % trọng lượng cá trong ao.
Ngày thứ 5: Trộn 10- 30% thức ăn hỗn hợp với hồng trần nghiền vụn rồi cho cá ăn.
Ngày thứ 6 đến 10: mỗi ngày tăng thêm 10% thức ăn tổng hợp đến ngày thứ 10 thức ăn tổng hợp chiếm 80%.
Ngày thứ 15 trở đi: Cho cá ăn hoàn toàn bằng thức ăn tổng hợp với lượng thức ăn tổng hợp được tính bằng 10 - 15% trọng lượng cá. Mỗi ngày bạn cho ăn 2 lần vào lúc 7 - 8 giờ sáng và 4 - 5 giờ chiều.
Nếu nhiệt độ trong ao hạ xuống dưới 15oC, bạn chỉ cho ăn 1 lần/ngày hoặc không cho ăn vào ngày đó.
Trong lúc cho ăn, bạn không sục khí, chỉ cần tập cho cá quen dần với viêc ăn vào ban ngày và còn nơi cho cá ăn, bạn không cần che tối.
Nhìn chung, bạn nên sử dụng thức ăn mềm để cá dễ ăn, song không sử dụng loại quá mềm, vì như thế thức ăn sẽ bị tan trong nước ao. Để giúp cá tăng trọng, bạn cần cho dầu dinh dưỡng vào thức ăn, trộn đều rồi cho ăn.
Dưới đây bản cho thấy tỉ lệ thức ăn, dầu dinh dưỡng và nước để trộn thức ăn có quan hệ mật thiết với nhiệt độ, đơn vị tính của bảng này là kg;
Nhiệt độ | Thức ăn | Dầu | Nước |
100 | 0 | 130 | |
18 - 23oC | 100 | 3-5 | 170 |
> 23oC | 100 | 5-8 | 200 |
6.Chăm sóc và quản lý
Muốn cá tăng trưởng nhanh, ít bệnh, bạn cần bảo đảm những thông số sau:
-Các chỉ tiêu hoá học: Mặc dù cá chình có khả năng chịu đựng hàm lượng ôxy rất thấp trong nước ao ương, song để giúp cá tăng trọng nhanh bạn cần có hàm lượng ôxy hoà tan trong nước khoảng 5 mg/l trở lên, dưới 4 mg/l cá không phát triển được. Còn độ Ph cần trong phạm vi pH = 7 - 8,5; NH4 - N :
Nếu vượt qua thông số kể trên, cá sẽ bị bệnh viêm nang, viêm ruột.
Ðộ trong của nước tốt nhất là trên dưới 40 cm, không được dưới 20 cm.
- Chăm sóc ao: Hằng ngày, bạn phải xi phông đáy ao, hút bớt chất thải và rác rưởi đáy ao; làm giảm lượng NH4 - N gây độc cho cá, sau đó bơm thêm nước mới vào (mỗi ngày thay nước mới ½ lượng nước ao),
Bạn sử dụng máy sục để làm khí tăng ôxy hoà tan trong nước(loại bơm nén khí 0,03m3/giây ). Nếu ương nhiều ao, mỗi ao có ít nhất một vài máy( mỗi máy dùng cho 40 viên đá bọt). Tính trung bình, sử dụng một viên đá bọt /2,5 m3 nước để đảm bảo mỗi lít nước 5 mg ôxy hoà tan.
Ngoài ra bạn có thể dùng thêm máy quạt nước (2 máy 0,55 KW /ao). Máy này vừa cấp oxy vừa tạo thành dòng chảy trong ao.
-Phân loại cá để nuôi:
- Trong quá trình ương nuôi, cá sẽ phát triển thành nhiều loại kích cỡ khác nhau. Do đó, khoảng 20-30 ngày, bạn nên phân loại cá một lần, trước khi phân đàn 12 giờ, bạn không cho cá ăn. Sau khi phân loại 30-40 phút cho cá ăn lại như thường lệ.
Bạn tập trung vào những loại cá có kích cỡ nhỏ để nuôi riêng, còn cá trung bình và lớn và lớn có thể thả nuôi chung.
- Nuôi ghép:
- Bạn có thể nuôi ghép cá chình với những loại khác không cạnh tranh thức ăn với cá chình như: cá mè trắng, mè hoa, cá chép, cá diếc…; những loài cá này ăn chủ yếu những loài thức ăn có sẵn trong ao, đặt biệt những sinh vật phù du, như vậy sẽ làm sạch nước ao có lợi cho môi trường nuôi cá chình, ngoài ra giúp bạn tăng thêm sản lượng cá, cải thiện mức thu nhập.
Bạn có thể thả ghéptheo tỷ lệ: 40 -50 con cá loại kể trên / 1000 m2 ao.
III. Nuôi cá chình thương phẩm
1. Nuôi trong bể gạch hoặc xi măng
Dưới đây là mô hình nuôi cá chình cao sản, do dó bạn cần đảm bảo những điều kiện cần thiết sau:
- Nước ao phải lưu thông thường xuyên, nghĩa phải tạo ra dòng nước chảy trong ao.
- Sử dụng thức ăn công nghiệp chuyên dùng cho cá chình
- Thả với mật độ trung bình 200 – 250 con/100 m2 hoặc mật độ cao 3000- 3500 con/100 m2
- Nếu thực hiện đúng những yêu cầu trên, bạn có thể sản xuất trung bình 30 – 40 tấn/ha (3-4,5 kg cá/m2 ); còn nếu thành công hơn có thể đạt sản lượng 110-125 tấn cá/ ha (11 -12 kg cá/m2 ).
Khi mua thức ăn công nghiệp, bạn cần đọc công thức ghi trên bao bì. Loại thức ăn đó phải bảo đảm tỉ lệ bột cá khoảng 70-75%, tinh bột 20-30%, 45% đạm, 3% mỡ, 2,5 % caxi,1,3 % phốt pho và 1% cenlulo; ngoài ra, phải có thêm liều lượng muối khoáng, khoáng vi lượng các loại vitamin phù hợp cho cá.
Nếu không tìm ra loại thức ăn công nghiệp có công thức như trên, bạn có thể có cá ăn thức ăn tự chế biến để bổ sung đủ hàm lượng cho các chất dinh dưỡng còn thiếu trong thức ăn công nghiệp. Và dĩ nhiên, bạn cần tính toán công thức cho ăn tự chế biến có bao nhiêu đạm, mỡ, canxi đủ chỉ tiêu dinh dưỡng cho cá.
Nhìn chung khi sử dụng thức ăn công nghiệp, bạn cần chú ý: do thức ăn có tỉ lệ bột khá cao, nhiều mỡ nên dễ mốc, dễ hút ẩm, bạn cần bảo quản tốt nguồn thức ăn này, thời gian bảo quản không nên vượt quá 60 ngày.
Trước khi cho ca ăn, bạn cần rước nước và dầu dinh dưỡng vào thức ăn công nghiệp, trộn đều để thức ăn mềm và mịn giúp cá dễ ăn.
Tỷ lệ nước, dầu, thức ăn công nghiệp phụ thuộc vào những đều kiện nhiệt độ dưới đây (đơn vị tính: kg).
Nhiệt độ | Thức ăn | Dầu | Nước |
15 - 20oC | 100 | 3-5 | 110-130 |
20 - 23oC | 100 | 5-7 | 110-130 |
23 - 30oC | 100 | 7-10 | 110-130 |
Khoảng 5 phút sau khi trộn nước, dầu vào thức ăn, bạn cho cá ăn, là vừa. Nếu thấy khoảng 2/5 tổng lượng thức ăn nổi trên mặt nước, còn 3/5 lượng thức ăn chìm xuống khay đặt phía dưới mặt nước đạt yêu cầu.
Dưới đây bảng cho thấy tỉ lệ thức ăn/trọng lượng cá chình trong giai đoạn nuôi:
Cỡ cá | Cá bột | Cá hương | Cá giống | Cá cỡ nhỏ | Cá thương phẩm |
Trọng lượng cá (g) | 0,2-0,8 | 1-1,5 | 16-40 | 40-100 | 150-200 |
Thức ăn (%) | 6-10 | 4-6 | 3-4 | 2,8-3 | 2-2,5 |
Khoảng 20 -30 ngày bạn phân loại cá một lần. Bạn lấy vượt để bắt cá (không bắt bằng tay) và dùng sàng nhẫn để phân loại. Mục đích của việc này tập trung vào những con cá lớn và cá nhỏ nuôi riêng . Như vậy, con lớn sẽ không tranh giành thức ăn với những con nhỏ, giúp cho cá chóng lớn, tăng trưởng đồng đều.
Trước khi phân loại cá, bạn không cho cá ăn từ 1 đến 2 ngày để cá tiêu hóa và bài tiết hết chất thừa trong bụng.
Đến mùa thu hoạch, bạn có thể dùng lưới điện để đánh bắt cá chình khi đêm đến, lợi dụng đặc điểm hướng quang của cá, bạn đặt đèn ở một góc ao cho cá tập trung rồi lấy vợt bắt. Nhìn chung, nuôi cá chình hương thương phẩm trong bể gạch hay xi măng, bạn có thể thu hoạch 1,2-1,3 tấn ca/ha/mùa vụ.
2. Nuôi trong ao đất
Bạn cần bảo đảm tiêu chuẩn sau: ao không bị rò rỉ, nước trong ao sạch, ph > 6,8, không ảnh hưởng nhiều bởi nước mưa; việc bơm và tháo nước ao dễ dàng, thành trong xung quanh ao cần phải cao hơn mặt nước từ 65 cm trở lên. Bờ ao cao từ 60 -80 cm. Bạn có thể xây bờ bằng gạch hoặc dùng lưới để cá không nhảy thoát ra ngoài được. Phần đáy ao là cát hoặc cát bùn.
Ngoài ra, bạn cũng cần chủ động được nguồn điện, có máy sục khí và thức ăn cho cá.
-Cá giống và thức ăn: Trước hết, bạn chọn loại cá có trọng lượng 10 -15 g/con, thả nuôi với mật độ 12.000-15.000 con/1000 m2 . Mỗi ngày cung cấp lượng thức ăn bằng 2- 3% tổng trọng lượng cá trong ao.
- Nuôi cá chình trong ao đất thì không cần phân loại kích cỡ như cách nuôi bể gạch hay xi măng. Cách chăm sóc và quản lý cũng giống như ao nuôi cá giống.
Quản lý nước ao: Như cách sử dụng trong giai đoạn nuôi ương cá giống.
- Nuôi ghép: Bạn có thể nuôi cá chình với cá mè hay cá trắm. Mật độ thả dài hai loại cá này khoảng 400- 500 con/m2. Mỗi ngày bạn cho chúng ăn 1- 2% trọng lượng cá chình có trong ao, ngoài ra chúng sẽ tự tìm thức ăn có sẵn trong ao. Tuy nhiên bạn cần chọn cá mè và cá trắm tương đối lớn, không nên thả cá giống quá còn nhỏ trong ao nuôi cá chình.
Đến mùa thu hoạch, bạn dùng lưới vớt bắt cá mè và cá trắm trước, sau đó tháo nước ra khỏi ao để mực nước chừng 10- 20 cm rồi dùng lưới điện để bắt cá chình hoặc đèn tập trung cá lại rồi dùng vợt bắt.
Nhìn chung, mỗi vụ thu hoạch, bạn có thể đạt năng suất trung bình 20 – 25 tấn cá/ha.
IV. Thị trường và vài mô hình nuôi cá chình nước ngọt ở châu Á
Dưới dây là những bài báo nước ngoài viết về cá chình, chúng tôi tuyển dịch để bạn kham khảo thêm:
1. Thị trường cá chình
Có thể nói, hiện nay nơi tiêu thụ cá chình lớn nhất thế giới là chợ "kabayaki" ở Nhật Bản. Ở đây, người ta bán hơn 11.000 tấn cá chình/ năm, song các trang trại chỉ nuôi và cung cấp khoảng 3000 tấn chình mỗi năm. Như vây, nguồn còn lại chắc chắn nhập khẩu và đánh bắt trong tự nhiên.
Ở chợ "kabayaki" người tiêu dùng rất chuộng cá chình nặng 200g. Để cá có kích cỡ như vậy, người ta chọn nuôi loài cá chình vây dài và vây ngắn Australia, những loài này có thể tăng trọng khoảng 200g trong quá trình nuôi từ 12 đến 18 tháng.
Nhìn chung loài cá chình A. australis tương tự như cá chình Nhật Bản (loài A. japonica), cả về ngoại hình lẫn mùi vị thịt. Song người Nhật lại có tính thích cá chình Australia hơn chúng không thay đổi màu sắc về ngoại hình và đây chính là lý do để họ chấp nhận cá chình A. australis vào thị trường Nhật ngày càng nhiều hơn.
Ở châu Âu và châu Á, người ta rất thích ăn loại cá chình vây dài, đặt biệt là loại cá có kích cỡ lớn.
2. Nuôi cá chình quy mô nhỏ ở Philippines
Nếu nuôicá chình trong ao nhỏ thì không cần phải có khối lượng nước quá nhiều và cũng không cần công thức cho ăn chi tiết.
Ở Philippines người ta chăn nuôi nhỏ rất thích nuôi loài cá chình nước ngọt Angualla, vì loài này rất hợp với mô hình của họ.
Cá chình Angualla rất khỏe mạnh, có sức chịu đựng ô nhiễm khá cao. Chúng tăng trường nhanh và ăn những thức ăn có sẵn trong vùng nuôi, bao gồm cà giun.
Cá chình có thể sống với mật độ dày đặc. Người ta thường thả nuôi với mật độ lý tưởng: một đàn cá chình con cân nặng 0,5 -1 kg (khongả 3.000-6.000 con)/ 1 m3.
Nếu cung cấp đủ oxy có chất lượng tốt thì con cá sẽ tăng trưởng nhanh. Và người ta thường đánh bẳt cá chình con có kích cỡ 12-15 cm, trong thiên nhiên để nuôi. Chỉ cần nuôi khoảng 12-18 người ta đã bắt đầu thu hoạch cá được rổi.
Nếu cho ăn đúng cách và sử dụng thức ăn phù hợp, trong vòng 8-9 tháng nuôi sẽ có 70% số cá đạt trọng lượng 250 g/con.
Người ta thường có một chỗ riêng để tạo nguồn thức ăn nơi cá chình con, nghĩa là cần nơi nuôi giun đất, thức ăn rất thích hợp cho cá chình con.
Riêng cá chình trưởng thành thì rất phàm ăn, chúng "xơi" rất nhiều loài thức ăn như: giun đất, cá hồi nhỏ, ốc sên, con trùng sống dưới nước, nhộng tằm, phụ phẩm của loải mổ, thức ăn của động vật khác…
Người ta thường sử dụng thức ăn tự nhiên và thức ăn có sẵn ở địa phương để nuôi cá chình và đây là cách nuôi được nhiều người ưa thích nhất, thứ nhất làm giảm chi phí nuôi và thứ hai là vì sự an toàn của môi trường. Thí dụ, người ta tận dụng ốc bưu vàng làm thức ăn cho cá chình, một cách rất tốt để quản lý và hạn chế phá hoại này. Tuy nhiên, ngoài ốc bưu vàng, bất kỳ mồi sống nào cho cá chình ăn, người ta cũng luôn chú ý đến sự ô nhiễm nguồn nước, vì thức ăn thừa làm thối nguồn nước ao, khiến cá dễ bị tress và bệnh.
Lúc cá chình cân nặng 250-300 g/con, người ta bắt đầu thu hoạch cá. Họ có thể thu hoạch toàn phần hoặc toàn bộ số luọng trong ao. Thời điểm tốt nhát để bắt cá trong lúc cho ăn, người ta chặn lưới phía dưới chổ đựng thức ăn để bắt. Họ bắt cá cẩn thận không làm cá bị thương, vì như thế cá có thể chết hoặc buộc bán với giá rẻ
Họ bảo quản cá trong những thùng chứa, lồng lưới hoặc rổ khoảng hai ngày trước khi vận chuyển chúng ra bán thị trường.
Sau mỗi dợt thu hoạch, người ta làm sạch hoàn toàn ao, phơi khô dưới nắng trời vài ngày trước khi thả nuôi đợt cá mới lần nữa.
3. Nuôi cá chình ở Hàn Quốc
Cá chình là loại cá nước ngọt quan trọng nhất được nuôi ở Hàn Quốc. Từ năm 1968, người ta bắt đầu nuôi loại cá này. Trong thời kỳ đầu, mục đích chính nuôi cá này là sản xuất cá sắp đẻ từ cá bột tuyển chọn từ con sông. Những con cá này được xuất khẩu sang Đài Loan, Nhật Bản để nuôi nhiều hơn nữa. Loài chính được nuôi là cá chình Nhật Bản (Anguilla japonia). Hiện nay, người ta chưa biết vị trí chính xác nơi loài này đẻ trứng, hoặc dù loài này đã được chính minh là sinh sản ra một nơi nào đó thuộc miền Nam Đài Loan.
Với sự phát triển của công nghệ, nhu cầu nuôi cá chình làm thực phẩm có ý nghĩa rất quan trọng ở Hàn Quốc, không chỉ sản xuất con giống, mà còn là sản phẩm tiêu thụ trên thị trường. Do đó, nghề nuôi cá chình đã phát triển ngày càng rộng khắp ở Hàn Quốc. Năm 2005, sản phẩm cá chình ở đất nước này khoảng 5000 tấn. Sự thành công nuôi cá chình còn tùy thuộc vào nguồn cá chình con trong tự nhiên, nhu cầu cá chình con ngày càng tăng ở các nước Đông Á như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, do đó càng làm tăng giá chình con lên rất cao. Một vài nhà chăn nuôi sử dụng cá chình con châu Âu thay vì cá chình con Đông Á.
Viện nghiên cứu và phát triển nghề nuôi cá ở quốc gia Hàn Quốc đã bắt đầu nghiên cứu về việc sản xuất cá chình con nhân tạo trong phòng thí nghiệm. Ở nước này, phần lớn những khu nuôi trồng thủy sản sử dụng hệ thống ao có cấu trúc nhà kính. Mục dích của việc này không chi ngăn ngừa cá chết trong mùa đông mà làm tăng thêm tỉ lệ sinh trưởng. Do điều kiện khí hậu Hàn Quốc khá bất lợi và do những vùng nuôi cá hạn chế cho sự phát triển của người nuôi cá, nên người ta đã thể nghiệm một số cách nuôi theo hệ thống tái tuần hoàn khép kín.
Cá chình tăng trưởng nhanh ở những vùng có khí hậu nhiệt đới nhiệt độ từ 23-280C. Trong điều kiện lý tương, chúng tăng trọng và có thể bán được là vào khoảng 150-200 g sau 12- 18 tháng nuôi, tuy nhiên tỷ lệ tăng trưởng của chúng có thể thay đổi với biên độ rất lớn.
Khi nuôi ao, vị trí tốt nhất là được cung cấp nước liên tục và nơi đó không bị ngập lụt. Nước khoan(giếng) rất phù hợp nuôi để nuôi loài cá này lâu dài, tuy nhiên nước cần phải không chứa mầm bệnh và cặn bã các chất hóa học, nước phải có độ pH từ 7,0-8,0. Không nên sử dụng nước có độ acid cao. Nơi nuôi cá chình hơn nghiêng thì phù hợp để tận dụng sức hút trọng lực trong việc làm đày và can ao.
Cách nuôi cá chình trong bể tập trung thì vị trí nuôi không cần phải chọn kỹ, tuy nhiên vẫn cần có nguồn nước tốt.
Thu hoạch
Việc thu hoạch cá chình có trọng lượng khác nhau từ 150 g đến 3-4 kg, tất cả tùy thuộc vào nhu cầu thị trường. Để thu hoạch cá, người ta tháo hết nước ao ra (nước chảy qua những ống cống có lưới che) rồi dùng lưới kéo bắt chặt vào lúc cho ăn, họ dùng lưới có cán để xúc cá. Sau đó, người ta phân loại cá thành những kích cỡ khác nhau, đựng trong những cái khay riêng. Kế tiếp, họ cho cá vào những bể giữ tạm thời vài ba ngày mà không cho ăn gì cả, mục đích để làm sạch dạ dày của chúng. Rồi người ta cho chúng vào những túi nhựa chắc chắn, chỉ chứa lượng nước đủ lạnh đủ để bảo đảm da chúng duy trì ẩm ướt. Loài cá nàycó thể thở bằng da của chúng. Cuối cùng túi được bơm đầy khí oxy người ta vận chuyển chúng ra chợ để bán.
Có thể bạn quan tâm
Cụ thể: Trong ao đất, nuôi với mật độ 1-2 con/m2; thời gian nuôi từ 12 - 24 tháng; khi thu hoạch, mỗi con đạt từ 1kg trở lên, năng suất khoảng 4 - 5 tấn/ha. Nuôi bể xi măng, mật độ từ 30 - 50 con/m2 trong điều kiện có sục khí, nước chảy thường xuyên đảm bảo lượng oxy 5mg/l trở lên; mực nước từ 0,8 - 1m; diện tích bể từ 10 - 100m2; độ sâu bể khoảng 1,2m; có nơi trú ẩn cho cá nghỉ ngơi; ngày cho ăn 2 lần, lượng thức ăn bằng khoảng 5 - 7% trọng lượng cơ thể cá. Nuôi bể xi măng phải hút bỏ thức ăn thừa hàng ngày và cọ rửa bể hàng tuần. Nuôi lồng với mật độ từ 50 - 100 con/m2… Thức ăn chủ yếu là các loại cá nhỏ, ốc, tôm, tép tươi, trai, ếch, nhái. Các loài này được cắt nhỏ để cho ăn.
Cá chình là loài cá có tính thích ứng rộng với độ mặn, cá có thể sống được ở nước mặn, nước lợ, nước ngọt.Cá thích bóng tối, sợ ánh sáng nên ban ngày chui rúc trong hang, dưới đáy ao, nơi có ánh sáng yếu, tối bò ra kiếm mồi di chuyển đi nơi khác.
Có lẽ đến nay các loại cá nước ngọt ở ĐBSCL về giá trị kinh tế chưa có loại nào qua mặt nổi cá chình. Hiện nay, 1 kg cá chình trị giá tương đương 3 giạ lúa. Loài cá này đang được xếp vào hàng cá dành cho đại gia. Chính giá trị kinh tế cao của nó nên đã có nông dân mạnh dạn đầu tư nuôi cá chình trong ao.
Hiện nay một số nước trên thế giới có hàng trăm ngàn loại cá chình, tên tiếng Anh của chúng là "eel", còn tên khoa học tùy theo giống và loài.
Phân bố: Đại Tây Dương: bờ biển Đại Tây Dương từ Sandinavia đến Morocco và những dòng sông Miền Bắc Đại Tây Dương, biển Balic và biển Địa Trung Hải. Người ta xuất khẩu loài này sang châu Á