Khoảng Cách Nông Dân Doanh Nghiệp Ngày Càng Thu Hẹp

Nghiên cứu, phân tích tác động của hội nhập đối với ngành nông nghiệp, nông thôn, vùng nghèo đói đã đưa ra đề xuất chính sách thích hợp với chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn.
“Nhìn lại sau 4 năm triển khai, giai đoạn II của Chương trình hỗ trợ kỹ thuật Hậu gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) đã giúp bức tranh của nền kinh tế Việt Nam sáng hơn, nhất là thu hẹp khoảng cách giữa người nông dân (năng lực sản xuất) và doanh nghiệp (nhu cầu tiêu thụ)”.
Đó là nhận định chung của nhiều đại biểu tại Hội nghị tổng kết “Chương trình WTO: Các kết quả và bài học kinh nghiệm” do Bộ Công thương tổ chức cuối tuần qua.
Theo Thứ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Cẩm Tú, đã 7 năm kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO là một chặng đường không dài nhưng hết sức quan trọng của tiến trình hội nhập quốc tế và chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường.
Trong khoảng thời gian đó, với mục tiêu hỗ trợ Việt Nam đạt được các mục tiêu xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống người dân, từ năm 2009, giai đoạn II của Chương trình hỗ trợ kỹ thuật Hậu gia nhập WTO (viết tắt Chương trình B-WTO) đã tài trợ cho 48 dự án, trong đó có 6 dự án hỗ trợ Bộ NN-PTNT nhằm giải quyết thách thức kinh tế xã hội của hội nhập tới khu vực nông thôn.
Giai đoạn I Chương trình B-WTO (từ tháng 1/2007 - tháng 3/2008). Giai đoạn II (tháng 9/2009 - tháng 3/2014) tài trợ 48 dự án cho 28 đối tượng thụ hưởng. Hiện nay, Chương trình đã giải ngân được 11,67 triệu USD trên tổng số gần 13 triệu USD (chiếm tỷ lệ 89,7%).
Đặc biệt, nghiên cứu, phân tích tác động của hội nhập đối với ngành nông nghiệp, nông thôn, vùng nghèo đói và đã đưa ra đề xuất chính sách thích hợp. Một số đề xuất chính sách của Dự án đã được đưa vào nội dung Dự thảo chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn.
Đại diện cho một nhóm đối tượng được thụ hưởng, ông Đoàn Ngọc Phả, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh An Giang chia sẻ, hiệu quả được thể hiện rõ tại An Giang. Đó là chương trình đã giúp đào tạo đội ngũ cán bộ tư vấn và giảng viên để giúp nông dân tuân thủ gần 200 điều trong mục sản xuất lúa theo tiêu chuẩn quốc tế GlobalGAP.
Với mục tiêu ban đầu tạo ra sản phẩm an toàn, chất lượng, đồng nhất và thân thiện môi trường, cải thiện thu nhập, ngành nông nghiệp An Giang cũng xúc tiến sản xuất theo mô hình “Cánh đồng lớn”, vận động doanh nghiệp đầu tư xây dựng các vùng nguyên liệu từ 300 - 1.000 ha, trong đó nông dân hình thành các tổ nhóm, chỉ sản xuất đồng loạt 1 - 2 giống lúa.
Kết quả cho thấy trong vụ đông xuân 2013 - 2014, đã có 15 doanh nghiệp trên đất An Giang tham gia ký hợp đồng với nông dân trên tổng diện tích gần 10.000 ha. Mô hình “Cánh đồng lớn” của tỉnh được Bộ NN-PTNT đánh giá cao.
Hay như tại Tiền Giang, Chương trình tập trung hỗ trợ xuất khẩu trái cây tại vùng đất này bằng cách hỗ trợ để tổ chức nhiều buổi tọa đàm, tập huấn về các yêu cầu của thị trường tiêu thụ và xuất khẩu ba sản phẩm chủ lực của tỉnh là thanh long, xoài, nhãn. Cung cấp nhiều thông tin về nhu cầu, giá cả thị trường trong và ngoài nước cho các đối tượng liên quan. Đồng thời hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc ký hợp đồng liên kết tiêu thụ.
Với những hiệu quả đã và đang nhìn thấy từ việc thực hiện Chương B-WTO, đại biểu của hầu hết các Bộ, ngành hy vọng đây sẽ là kinh nghiệm quý báu cho các chương trình hỗ trợ kỹ thuật trong tương lai, giúp mỗi người dân nâng cao nhận thức về cam kết WTO và hội nhập kinh tế quốc tế. Qua đó có thể triển khai đồng bộ các yếu tố của nền kinh tế thị trường, nhanh chóng hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Có thể bạn quan tâm

Tuy cơ quan chức năng và chính quyền địa phương đến cấp xã trong tỉnh Vĩnh Long đều nắm rõ quy định của Bộ Nông nghiệp- PTNT cấm nuôi tôm thẻ chân trắng (TCT) nước ngọt nhưng hiện tình hình nuôi tôm TCT trái phép trên địa bàn tỉnh chưa chấm dứt triệt để- nhất là 2 huyện Vũng Liêm, Tam Bình.

Từ ngư dân chính hiệu, họ tự tìm tòi, học hỏi đã trở thành những người nuôi tôm giỏi, vươn lên làm giàu trên vùng cát quê hương. Tạm gọi họ là những “kỹ sư” chân đất.

Dọc vùng ven biển Ninh Ích (thị xã Ninh Hòa, Khánh Hòa), những cánh rừng ngập mặn đã bắt đầu vươn lên xanh tốt. Dưới tán rừng, các loài thủy sản được người dân thả nuôi đang mang lại hiệu quả cao.

Ngày 19/7, kỹ sư Phạm Duy Phượng, giảng viên Trường cao đẳng Công nghiệp Tuy Hòa (Phú Yên), cho biết, sau hơn nửa năm chế tạo thành công bộ thiết bị gây tê cá ngừ đại dương bằng điện, đến nay, ông đã chế tạo được hơn 30 bộ gây tê cá ngừ, cung cấp cho ngư dân trong tỉnh và ngoài tỉnh. Giá mỗi bộ thiết bị 25 triệu đồng, thấp hơn ba lần so với thiết bị cùng loại do Nhật Bản sản xuất.
Báo cáo của Chi cục Thủy sản cho thấy, nuôi cá lồng bè phát triển ổn định cả sản lượng và giá cả, trong khi nuôi cá tra tiếp tục thua lỗ.