HTX quy mô nhỏ cho hiệu quả cao
Ông Trần Văn Phụng - Chủ tịch Liên minh HTX tỉnh Bình Phước, cho biết ngoài 30 HTX nêu trên, tỉnh sẽ lập thêm 1 liên hiệp HTX nông - lâm nghiệp gắn với đề án “Phát triển các loại hình kinh tế hợp tác trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số”.
Ngoài ra, thực hiện chương trình “Hỗ trợ phát triển HTX giai đoạn 2015-2020”, gồm các chính sách hỗ trợ, ưu đãi đối với các tổ chức kinh tế tập thể, tỉnh sẽ lập thêm 28 tổ hợp tác (THT) có đăng ký chứng thực hợp đồng hợp tác tại UBND cấp xã.
Trong đó, có 24 THT thương mại, 3 THT tín dụng và 1 THT nông - lâm nghiệp.
Ông Phụng (bên phải) thăm mô hình bưởi da xanh của HTX Thanh Bình ở phường Tân Phú, thị xã Đồng Xoài (Bình Phước).
Cũng theo ông Phụng, tỉnh phấn đấu đến năm 2020, các mô hình kinh tế tập thể đạt doanh thu bình quân 6,6 tỷ đồng/HTX/năm, thu nhập lao động trong HTX bình quân 18 triệu đồng/năm.
Hiện nay, ở Bình Phước có không ít mô hình kinh tế tập thể kinh doanh hiệu quả.
Điển hình như Quỹ Tín dụng nhân dân Phước Bình, quy mô kinh doanh không lớn nhưng tỷ lệ tăng trưởng cao trong nhiều năm liền.
Tổng doanh thu năm 2014 của quỹ này là 13,3 tỷ đồng, lợi nhuận 2,2 tỷ đồng, thu nhập bình quân 162 triệu đồng/người/năm.
Đây là một trong 100 HTX điển hình tiên tiến toàn quốc.
Hoặc HTX Thiện Hưng, hoạt động chủ yếu bao tiêu nông sản của nông dân thông qua hình thức hỗ trợ, ứng trước giống cây trồng, vật tư nông nghiệp; thu mua, chế biến, xuất khẩu mủ cao su; đầu tư, kinh doanh bến xe khách cấp huyện, vận chuyển hành khách...
HTX có doanh thu 30-40 tỷ đồng/năm, thu nhập bình quân 48 triệu đồng/thành viên/năm.
“Đây là những mô hình làm ăn hiệu quả mà tỉnh dự kiến đẩy mạnh trong thời gian tới.
Để phát triển bền vững, các HTX phải tập trung mở rộng quan hệ, ký kết hợp đồng với một số doanh nghiệp có chính sách bán vật tư, hàng hoá chất lượng trả chậm một phần cung ứng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật...
cho thành viên nhằm khắc phục mặt hạn chế về vốn quỹ.
Đặc biệt, HTX phải xúc tiến chủ động tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm” - ông Phụng nhận định.
Có thể bạn quan tâm
Năm qua, sự cạnh tranh khốc liệt để giành lấy thị trường của các doanh nghiệp (DN) chế biến xuất khẩu cá tra ngày càng tăng, các rào cản kỹ thuật đối với thương mại của các nước nhập khẩu ngày càng nhiều, các yêu cầu, điều kiện ngày càng khắc khe... nhưng DN xuất khẩu cá tra trong tỉnh Đồng Tháp đã năng động trong việc tìm kiếm thị trường mới.
Trong đó tôm là mặt hàng xuất khẩu tăng mạnh nhất (27%) và chiếm tỷ trọng lớn nhất (50,4%) nhờ lượng sản xuất và nhập khẩu nguyên liệu tăng, trong khi thị trường thế giới thiếu nguồn cung do dịch bệnh EMS.
Giá trị xuất khẩu con tôm Cà Mau luôn tăng qua các năm, đạt trên 1,2 tỷ USD trong năm 2014. Tuy nhiên, nhìn vào thực tế cho thấy, phần lớn được xuất dưới dạng sản phẩm thô, mới qua sơ chế, làm giảm giá trị sản phẩm, chỉ có khoảng 40% sản phẩm có giá trị gia tăng được xuất khẩu.
Bà Cao Thị Kim Lan, Giám đốc Công ty cổ phần Thủy sản Bình Định (BIDIFISCO) cho biết: Lô hàng cá ngừ đại dương thứ hai của tỉnh ta xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản đã được bán đấu giá tại Trung tâm Đấu giá thành phố Osaka (Nhật Bản) vào sáng 2.2, với giá bình quân 1.000 JPY/kg (khoảng 190.000 đồng/kg).
Phần lớn, cá ngừ của Việt Nam được xuất khẩu ở dạng đã qua chế biến, làm hàng đông lạnh thay vì làm hàng chất lượng cao, xuất khẩu nguyên con trực tiếp nên giá trị thu về không cao. Ngoài ra, các doanh nghiệp thủy sản còn phải nhập khẩu tới 50% nguyên liệu về để chế biến nên khó có thể chủ động trong nguồn hàng cũng như ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của sản phẩm.