Hỗ trợ phát triển chứng nhận bền vững sản phẩm nuôi trồng thủy sản

Tại hội thảo, ông Phùng Giang Hải - Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển nông nghiệp - nông thôn cho biết, hiện sản lượng nuôi trồng thủy sản đang chiếm trên 60% tổng sản lượng thủy sản Việt Nam và theo hướng tái cơ cấu ngành đến năm 2020, Việt Nam sẽ đưa sản lượng thủy sản nuôi trồng lên 65 - 70%. Giá trị xuất khẩu thủy sản không ngừng tăng. Trong khi nuôi trồng thủy sản bền vững có nhiều cơ hội: Kinh tế thế giới đang phục hồi, nhất là các thị trường truyền thống của Việt Nam; Nhu cầu về các sản phẩm thủy sản nuôi trồng bền vững ngày càng cao… Tuy nhiên, cũng phải đối mặt với biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, thị trường yêu cầu chất lượng cao, sự phục hồi của các đối thủ cạnh tranh…
Từ kết quả đề xuất của dự án “Nghiên cứu tiềm năng xuất khẩu của sản phẩm nuôi trồng thủy sản có chứng nhận”, nhóm nghiên cứu đưa ra nhận xét: Tác động của chứng nhận bền vững đối với tôm là tương đối rõ ràng và tích cực. Người sản xuất có lợi ích kinh tế, sản phẩm dễ tiêu thụ hơn, doanh thu và lợi nhuận đều cao hơn. Các chỉ số sản xuất bền vững hơn, giảm dịch bệnh, quan hệ cộng đồng tốt hơn. Doanh nghiệp có uy tín, thương hiệu tốt hơn. Giá xuất khẩu không tăng nhiều và dài hạn cho thấy chứng nhận bền vững đã tạo ra thêm giá trị gia tăng nhưng đòi hỏi công tác thị trường, xây dựng thương hiệu phải được thực hiện tốt hơn. Trong khi đó, với cá tra là không rõ ràng, đặc biệt về kinh tế. Các chỉ số về môi trường bền vững hơn, thiệt hại do dịch bệnh giảm bớt, quan hệ cộng đồng tốt hơn. Sự phân biệt về kinh tế giữa cá tra nuôi có chứng nhận và không có chứng nhận không rõ ràng, không tạo ra khác biệt về hiệu quả kinh tế.
Các đại biểu tham dự hội thảo đã thảo luận về chính sách hỗ trợ phát triển nuôi trồng thủy sản có chứng nhận, bền vững, đặc biệt mô hình PPP (hợp tác công tư) ở Đồng Tháp…
Phó tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản Phạm Anh Tuấn đánh giá cao việc chứng nhận trong nuôi trồng thủy sản đạt hiệu quả tốt. Đồng thời, cần phải hiểu bản chất của việc làm này là phục vụ cho xuất khẩu. Và làm được điều này, chúng ta cần làm rõ, thị trường cần chứng nhận nào và bao nhiêu chứng nhận. Điều này sẽ giúp nhà sản xuất lựa chọn thị trường xuất khẩu để thực hiện chứng nhận bền vững, đồng thời giúp các nhà quản lý có định hướng chỉ đạo…
Có thể bạn quan tâm

Tại những vùng trồng hoa, trái cây phục vụ Tết đã sôi động bởi thương lái đến khảo giá và thu mua gom hàng để chuẩn bị đem đi tiêu thụ. Nhìn chung, sản lượng hoa, trái cây Tết trên địa bàn tỉnh giảm hơn so với mọi năm, nhưng lượng hàng hóa từ các nơi khác đổ về khá dồi dào.

Theo ông Hà Văn Nghĩa, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT, Phó Ban chỉ đạo thực hiện xây dựng NTM tỉnh: Việc hỗ trợ sản xuất giúp nâng cao thu nhập cho người dân luôn được các địa phương quan tâm, triển khai thường xuyên. Hàng năm, các huyện và TP. Bà Rịa đều xây dựng kế hoạch triển khai các mô hình, dự án phát triển nông nghiệp.

Theo ngư dân Nguyễn Văn Út, ở phường Thắng Tam (TP. Vũng Tàu), nghề rập ghẹ, ốc đã có ở đất Vũng Tàu từ những năm 90 của thế kỷ trước, là nghề truyền thống của những ngư dân gốc Bình Định, Quảng Ngãi di cư vào Nam. Ở BR-VT, ngư dân hành nghề rập ghẹ, ốc tập trung chủ yếu ở khu vực Xóm Lưới (TP. Vũng Tàu), thị rấn Phước Hải (huyện Đất Đỏ),

Theo Sở NN-PTNT, ngành chăn nuôi của BR-VT hiện nay phát triển mạnh, nguồn cung các loại gia súc và gia cầm khá dồi dào, đáp ứng được nhu cầu của thị trường Tết. Công tác bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm cũng được ngành nông nghiệp chú trọng thực hiện trong thời gian qua.

Khoảng 90% sản lượng hạt mắc ca được dùng trong ngành thực phẩm và giá trị cao của loại hạt này đang hứa hẹn sẽ trở thành một nguồn thu đáng kể cho Việt Nam.