Hải Hậu (Nam Định) Phát Triển Nuôi Trồng Thủy Sản Bền Vững
Những năm qua, công tác nuôi trồng thủy sản (NTTS) được huyện Hải Hậu (Nam Định) tập trung chỉ đạo phát triển theo hướng bền vững.
Các hộ NTTS đã chuyển từ phương thức nuôi quảng canh sang nuôi quảng canh cải tiến, bán thâm canh và thâm canh; nhiều hộ đã đưa các đối tượng nuôi mới cho hiệu quả kinh tế cao vào sản xuất. Hiện, trên địa bàn huyện đã hình thành nhiều vùng nuôi thủy sản tập trung, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người dân địa phương.
Thực hiện đề án “Chuyển đổi diện tích trồng lúa, làm muối kém hiệu quả sang NTTS”, từ năm 2000 đến nay, huyện Hải Hậu đã chuyển đổi được 879ha sang NTTS. Đến nay, tổng diện tích NTTS của huyện đạt 2.280ha, trong đó diện tích nuôi nước ngọt đạt 1.852ha, diện tích nuôi mặn lợ 456ha.
Tổng sản lượng NTTS của huyện hằng năm ước đạt trên 7.000 tấn. Để nâng cao hiệu quả kinh tế cho các vùng nuôi, ao nuôi, huyện đã tăng cường công tác tập huấn, dạy nghề, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật nên nông dân tại vùng nuôi thủy sản nước ngọt đã từng bước chuyển từ nuôi quảng canh ít cho ăn sang nuôi quảng canh cải tiến, kết hợp cho đối tượng nuôi ăn thức ăn công nghiệp.
Vì vậy các vùng nuôi thủy sản nước ngọt dần đi vào ổn định và nâng cao năng suất, sản lượng, giá trị thu nhập trên diện tích đất canh tác. Các đối tượng nuôi mới có giá trị kinh tế cao như cá diêu hồng, cá lóc bông, trắm đen… phát triển qua từng năm.
Diện tích nuôi cá diêu hồng đến nay được mở rộng trên 120ha, tập trung chủ yếu ở các xã Hải Châu, Hải Đông, Hải Hòa, Hải An, Thị trấn Cồn. Diện tích nuôi cá lóc bông đạt 15ha tập trung ở các xã Hải Hòa, Hải Xuân và Thị trấn Thịnh Long. Nhiều gia đình đã xây dựng mô hình kinh tế trang trại tổng hợp kết hợp nuôi thủy sản với chăn nuôi gia súc, gia cầm và trồng màu, trồng cây cảnh, cây dược liệu cho hiệu quả kinh tế cao.
Điển hình là hộ các ông: Nguyễn Văn Luật (Hải Đông) thả cá kết hợp với nuôi gà; Trần Đình Thắng (Hải Châu) nuôi cá diêu hồng kết hợp với trồng màu; Trần Văn Tráng (Thị trấn Cồn) nuôi cá lăng chấm, diêu hồng kết hợp nuôi lợn, trồng cây cảnh… Ở các xã Hải Sơn, Hải Ninh…, xuất hiện một số mô hình nuôi ba ba, ếch quy mô gia đình, vốn đầu tư thấp song cho hiệu quả kinh tế cao.
Phong trào nuôi thủy sản tại vùng nuôi mặn lợ cũng phát triển khá sôi động khi các hộ đã tích cực đưa những đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao như tôm sú, tôm thẻ chân trắng, cua xanh, cá song kết hợp đầu tư kỹ thuật, sử dụng các chế phẩm sinh học thay cho dùng hóa chất theo hướng phát triển bền vững. Tôm thẻ chân trắng với những đặc điểm như thời gian nuôi ngắn, dễ nuôi, năng suất cao, dễ tiêu thụ… nên diện tích nuôi được mở rộng qua từng năm.
Đến nay, tổng diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng của huyện đạt 170ha, tập trung ở các xã ven biển. Nhiều mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng áp dụng tiến bộ KHKT cho hiệu quả kinh tế cao như: mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh áp dụng quy phạm nuôi tốt và quy tắc nuôi có trách nhiệm; mô hình nuôi tôm trái vụ trong nhà có mái che tại hộ các ông Bùi Trọng Chinh (Hải Lý), Nguyễn Văn Cường (Hải Đông) cho doanh thu từ 1-1,5 tỷ đồng/ha/vụ.
Ngoài tôm thẻ chân trắng, các đối tượng nuôi như: tôm sú, cua xanh, cá song… tại các xã Hải Triều, Hải Hòa được các hộ nuôi theo phương pháp quảng canh cải tiến, vốn đầu tư thấp nhưng cho hiệu quả khá. Để đảm bảo các vụ nuôi thủy sản thắng lợi, huyện chỉ đạo, hướng dẫn các xã, thị trấn thực hiện tốt các biện pháp kỹ thuật, đồng thời quản lý chặt chẽ nguồn giống, thức ăn, hóa chất, thuốc kháng sinh, chế phẩm sinh học, thường xuyên giám sát tình hình dịch bệnh trong công tác NTTS.
Cán bộ kỹ thuật các phòng, ban chuyên môn của huyện và cán bộ khuyến ngư, thú y tại các xã, thị trấn thường xuyên bám sát cơ sở nắm bắt tình hình công tác quy hoạch, thiết kế, cải tạo ao, đầm, diện tích nuôi, lượng giống thả để kịp thời đôn đốc, hướng dẫn nông dân thực hiện nghiêm túc quy trình kỹ thuật nuôi, xử lý nguồn nước cấp, nước thải…, đảm bảo không gây ô nhiễm môi trường, an toàn dịch bệnh cho các vùng nuôi. Năm 2013, huyện đã tổ chức 15 lớp tập huấn kỹ thuật NTTS cho trên 1.300 lượt người tham dự; mở 2 lớp dạy nghề NTTS trong thời gian 3 tháng cho 70 lao động tại 2 xã Hải Phương, Hải Long và cung cấp hàng trăm cuốn tài liệu về NTTS cho các hộ nuôi.
Thực hiện chỉ đạo của huyện và hướng dẫn của các cơ quan chuyên môn, nông dân các vùng nuôi thủy sản đã thực hiện tốt công tác cải tạo ao, đầm, chọn con giống nuôi phù hợp, thả đúng thời vụ, tuân thủ các biện pháp kỹ thuật thâm canh nên hầu hết các vùng nuôi không phát sinh dịch bệnh lớn, năng suất, sản lượng ngày càng được nâng cao, hầu hết các vùng nuôi đều có lãi, nhiều hộ gia đình có thu nhập 300-350 triệu đồng/ha.
Hầu hết các xã phát triển mạnh NTTS đều thành lập các CLB, tổ hợp tác để các hộ nuôi trao đổi, chuyển giao tiến bộ KHKT, quản lý môi trường nuôi, cung ứng con giống, thức ăn, thuốc thú y, phòng dịch bệnh, tìm kiếm thị trường tiêu thụ…
Nhiều CLB, tổ hợp tác NTTS hoạt động đạt hiệu quả cao đã thu hút nhiều hộ nuôi tham gia, tiêu biểu như: CLB NTTS các xã Hải Châu, Hải Chính, Hải Đông; CLB nuôi ếch Hội Nông dân xã Hải Ninh; CLB nuôi tôm xã Hải Lý… Đồng chí Đỗ Văn Thực, Chủ nhiệm CLB NTTS xã Hải Châu cho biết: Xã Hải Châu có 60ha nuôi cá diêu hồng.
Từ năm 2005, các hộ nuôi cá diêu hồng trong xã đã thành lập CLB NTTS. Đến nay, CLB đã thu hút trên 30 hộ nuôi cá diêu hồng tại địa phương tham gia. Ban chủ nhiệm CLB có trách nhiệm tư vấn, tổ chức hội nghị đầu bờ cho các hội viên trao đổi kinh nghiệm, kỹ thuật... Bên cạnh đó, các hội viên trong CLB còn hợp tác hỗ trợ nhau trong việc thu hoạch.
Để tiếp tục phát triển NTTS bền vững, thời gian tới, huyện Hải Hậu tập trung phát triển NTTS theo quy hoạch sản xuất nông nghiệp đã được tỉnh phê duyệt. Huyện tiếp tục rà soát quy hoạch NTTS ở các xã, thị trấn bảo đảm phù hợp với đề án “Mở rộng sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, trồng cây vụ đông trên đất 2 lúa và phát triển kinh tế trang trại nông nghiệp”.
Hoàn thiện nâng cấp những vùng nuôi đã có quy hoạch, các vùng dự án đã đi vào hoạt động. Đầu tư xây dựng đồng bộ các công trình thủy lợi, công trình điện, cống tưới, tiêu, đường giao thông, hệ thống ao nuôi, ao lắng. Huy động các nguồn vốn, các thành phần kinh tế tham gia chuyển dịch cơ cấu sản xuất.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tập huấn kỹ thuật cho các hộ nuôi; chủ động xây dựng, sớm có kế hoạch và biện pháp nâng cao hiệu quả tại các vùng chuyển đổi. Khuyến khích tích tụ ruộng đất, chuyển một số diện tích đất làm muối hiệu quả thấp sang NTTS theo quy hoạch, phát triển sản xuất nông nghiệp ở những nơi có điều kiện.
Các cơ sở sản xuất giống trong huyện đẩy mạnh công tác sản xuất giống truyền thống, kết hợp giống nuôi mới có hiệu quả kinh tế cao phù hợp với môi trường, điều kiện tự nhiên của huyện; từng bước nuôi khảo nghiệm những đối tượng nuôi thủy sản mới để nhân ra diện rộng.
Có thể bạn quan tâm
Cư Elang là xã đặc biệt khó khăn của huyện Ea Kar (Đắk Lắk). Vài năm trở lại đây, một số gia đình ở Cư Elang đã sử dụng một số diện tích đất đồi để trồng cam, quýt và bước đầu đã có thu nhập khá.
Nơi khô hạn, nắng nóng, nơi lại mưa rầm kéo dài đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất nông nghiệp vụ Xuân 2014. Biến đổi khí hậu đã dẫn đến hậu quả khôn lường đang diễn ra trên diện rộng tại địa bàn tỉnh ta. Nguy cơ mất mùa, thiếu đói lương thực đang hiện hữu trong các vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp của tỉnh là điều có thực...
Khoảng 10 ngày trở lại đây, trên địa bàn tỉnh Tiền Giang, giá bán các loại trái cây chủ lực tại vườn đồng loạt giảm, bình quân giảm từ 2.000 đồng đến 7.000 đồng/kg, tùy theo từng loại trái. Nguyên nhân chính là do cung vượt cầu, đã gây thiệt hại không nhỏ cho nhà vườn.
Trong những năm qua, việc áp dụng các giống mới vào sản xuất đã giúp cho năng suất lúa của nông dân không ngừng tăng cao. Nhưng hiện nay, ở một xã trên địa bàn, không ít hộ vẫn sử dụng lúa thương phẩm để làm giống. Cách làm này không chỉ khiến cho năng suất lúa thấp mà cây lúa dễ bị nhiễm bệnh, chi phí đầu tư cao...
Trong những năm qua, đời sống của người dân ở thị trấn Văn Quan, huyện Văn Quan (Lạng Sơn) không ngừng cải thiện, nâng cao. Đến nay, mức thu nhập bình quân đạt 12 triệu đồng/người/năm, tỷ lệ hộ nghèo chỉ còn 6,2% trên tổng số 1.021 hộ dân. Có được kết quả đó là do thị trấn đã thực hiện tốt phong trào phát triển kinh tế, trong đó chú trọng nhân rộng các mô hình có hiệu quả cao, điển hình là mô hình nuôi cá lồng trên địa bàn.