Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Giải pháp đảm bảo nguồn nước nuôi trồng thủy sản

Giải pháp đảm bảo nguồn nước nuôi trồng thủy sản
Ngày đăng: 16/09/2015

Tuy nhiên, trong quá trình nuôi, ý thức bảo vệ môi trường của người dân còn nhiều hạn chế, dẫn đến nguy cơ ô nhiễm nguồn nước rất cao. Trước thực trạng đó, hiện nay người dân đang tích cực đầu tư xây dựng hệ thống ao nuôi khoa học, đúng tiêu chuẩn, qua đó từng bước hạn chế dịch bệnh, tăng hiệu quả nuôi trồng.

Xã Quỳnh Bảng là địa phương có diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng lớn nhất huyện Quỳnh Lưu với 186,2 ha. Toàn bộ diện tích nuôi chủ yếu tập trung ở vùng nuôi tôm công nghiệp và HTX Lộc Thủy. Sản lượng tôm nuôi hàng năm đạt từ 800 tấn đến 1000 tấn/năm, nghề nuôi tôm thực sự đang đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân nơi đây.

Mặc dù nghề nuôi tôm thời gian gần đây phát triển khá ổn định, trình độ kỹ thuật của người nuôi và mức độ thâm canh ngày càng cao nhưng ý thức của người dân về sử dụng hóa chất, kháng sinh đúng cách trong nuôi tôm chưa cao.

Việc dập dịch, xử lý chất thải trong nuôi tôm trước khi thải nước ra môi trường chưa được người dân quan tâm nên đã gây ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái ven biển, dẫn đến nguy cơ dịch bệnh bùng phát và làm giảm hiệu quả kinh tế trong nuôi tôm.

Vùng nuôi tôm VietGap tại HTX Lộc Thủy, xã Quỳnh Bảng (Quỳnh Lưu - Nghệ An).

Ông Hoàng Xuân Tin, Chủ nhiệm HTX Lộc Thủy cho biết: HTX hiện có 80 ha nuôi tôm, trong đó quy hoạch gần 40 ha nuôi theo quy trình VietGAP. Do được đầu tư, hỗ trợ về kinh phí nên hầu hết các hộ nuôi trong vùng tôm VietGAP đều có hệ thống ao nuôi đạt tiêu chuẩn, có hệ thống kênh cấp, thoát nước riêng nên đảm bảo tốt vệ sinh môi trường.

Tuy nhiên, những diện tích nuôi tôm còn lại do chỉ dùng chung một hệ thống kênh cấp, kênh thoát, không có hệ thống xử lý nước thải nên việc xả nước thải tràn lan ra các dòng sông là nguy cơ lây lan, bùng phát dịch bệnh, ô nhiễm môi trường.

Trước thực trạng trên, UBND xã Quỳnh Bảng đã tuyên truyền cho các hộ dân cần tuân thủ đúng quy trình nuôi tôm; giao trách nhiệm cho ban quản lý, chủ nhiệm HTX vùng nuôi tôm cần theo dõi, kiểm tra việc xả nước ra ngoài của từng hộ nuôi. Ông Vũ Văn Dương, Phó Chủ tịch UBND xã Quỳnh Bảng cho biết: “Để nuôi tôm phát triển, nguồn nước phục vụ cho nuôi tôm có vai trò hết sức quan trọng.

Hiện nay, bà con đang sử dụng nguồn nước cùng cấp, cùng xả từ sông Mai Giang. Chính vì dùng chung một hệ thống kênh cấp, kênh thoát và không có hệ thống xử lý nước thải riêng nên dẫn đến việc ô nhiễm môi trường, đặc biệt là nguồn nước.

Để hạn chế tình trạng xả nước thải tràn lan, không đúng quy trình, UBND xã đã tuyên truyền, vận động người dân nêu cao ý thức bảo vệ môi trường; khi có dịch bệnh phải báo tin với địa phương để có biện pháp khắc phục.

Ngoài ra, địa phương đang có đề xuất phương án lên cấp trên về việc sẽ dùng hệ thống đường ống dẫn nước từ biển về các hồ nuôi tôm, qua đó hạn chế được dịch bệnh, nguồn nước được đảm bảo sạch để tôm phát triển”.

Trong nuôi tôm, việc đảm bảo nguồn nước sạch là khâu quan trọng hàng đầu, quyết định sự thành bại vụ nuôi. Xã Quỳnh Thanh hiện có 75 ha nuôi tôm, trong đó vùng nuôi tôm VietGAP được quy hoạch gần 30 ha. Quá trình triển khai theo mô hình nuôi tôm này, ông Trần Thường, ở xóm 14, cho biết: Gia đình có hơn 3 ha ao nuôi tôm, trong đó hơn 1 ha quy hoạch nuôi tôm VietGAP.

Xác định nguồn nước có vai trò rất lớn đến sự phát triển của tôm nên gia đình ông dành 15 - 20% tổng diện tích để xây dựng 3 ao lắng, xử lý nước cấp và diệt tạp trước khi bơm vào hồ nuôi.

Ngoài ra, có các hệ thống mương cấp, mương thoát nước riêng biệt đảm bảo đủ nước sạch đáp ứng nhu cầu nuôi. Quan trọng hơn, gia đình ông có 1 hệ thống ao chứa bùn để chứa nước thải sau khi thu hoạch tôm, thông qua ao chứa này để xử lý nguồn nước sau đó mới cho xả ra ngoài môi trường.

Với hơn 1 ha nuôi tôm VietGAP, trong vụ thu hoạch tôm vụ 1 vừa qua, sản lượng tôm của gia đình đạt năng suất gần 4 tấn, cao hơn từ 0,5-1 tấn so với diện tích ao nuôi thường. “Để tôm đạt năng suất cao, người nuôi tôm cần bám nắm khoa học kỹ thuật, trong đó việc đảm bảo nguồn nước sạch cho nuôi tôm là cần thiết. Nên lựa chọn những ngày không mưa, con nước cao nhất để lấy được nước sạch hơn, ít phù sa và độ mặn cao.

Nước lấy vào ao lắng qua túi lọc bằng vải dày nhằm loại bỏ rác, ấu trùng, tôm, cua, còng, ốc, côn trùng, cá tạp, để lắng 3 - 4 ngày. Không lấy nước vào ao lắng khi nước ngoài kênh mương có nhiều váng bọt, màng nhầy, nhiều phù sa, nguồn nước nằm trong vùng có dịch bệnh và nước có hiện tượng phát sáng vào ban đêm”, ông Thường chia sẻ.

Toàn huyện Quỳnh Lưu hiện có 2.200 ha nuôi trồng thủy sản, trong đó diện tích nuôi trồng thủy sản mặn, lợ là 573 ha (tôm: 463 ha và ngao 108 ha), còn lại nuôi trồng thủy sản nước ngọt ở các khu vực sông, suối, hồ đập. Để góp phần bảo vệ môi trường biển, hạn chế dịch bệnh, tăng hiệu quả cho người nuôi trồng thủy sản, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện khuyến cáo:

Đối với người nuôi tôm và các đối tượng nuôi thủy sản nước lợ trong ao, không sử dụng các loại hóa chất, kháng sinh dạng nguyên liệu mà chỉ dùng các sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường dùng trong nuôi trồng thủy sản.

Sử dụng quy trình nuôi tôm an toàn sinh học bằng cách sử dụng các chế phẩm sinh học, hạn chế thấp nhất việc sử dụng các loại hóa chất, kháng sinh trong nuôi tôm, để giảm bớt chất thải do phân, thức ăn dư thừa, dư lượng các loại hóa chất, kháng sinh trong ao tôm, từ đó, giảm lượng chất thải thải ra môi trường sông, rạch tự nhiên khi cải tạo ao nuôi.

Thường xuyên theo dõi sức khỏe, quản lý tốt lượng thức ăn hàng ngày của thủy sản nuôi, tránh tình trạng sử dụng thức ăn dư thừa, làm tăng lượng chất thải trong ao nuôi, bởi lượng thức ăn dư thừa sẽ tích tụ xuống đáy ao làm ô nhiễm môi trường ao nuôi.

Cần đầu tư hệ thống ao xử lý nước thải để xử lý nước ao nuôi thủy sản sau khi thu hoạch hay bị dịch bệnh trước khi xả nước trong ao nuôi ra môi trường, với diện tích ao xử lý nước thải tối thiểu bằng 30% diện tích ao nuôi. Do đó, người dân vùng nuôi trồng thủy sản trên địa bàn huyện Quỳnh Lưu cần tuân thủ kỹ thuật để bảo đảm cho các vụ nuôi thành công.


Có thể bạn quan tâm

Trên 20 Ha Lúa Mùa Nhiễm Bệnh Rầy Nâu Trên 20 Ha Lúa Mùa Nhiễm Bệnh Rầy Nâu

Trạm Bảo vệ thực vật huyện đã cung ứng cho nông dân trong vùng bị nhiễm các loại bệnh gây hại cho cây lúa 500 chai và 200 gói thuốc bảo vệ thực vật, tổng trị giá trên 8 triệu đồng; đồng thời, Trạm phối hợp với cán bộ khuyến nông, khuyến lâm các xã, vận động, tuyên truyền nông dân theo dõi dịch bệnh gây hại và kịp thời xử lý, tránh để các loại bệnh gây hại cây trồng, thiệt hại đến năng suất.

22/08/2014
Phụ Nữ Thôn An Hiệp Giúp Nhau Làm Kinh Tế Phụ Nữ Thôn An Hiệp Giúp Nhau Làm Kinh Tế

Vài năm trở lại đây, Chi hội phụ nữ thôn An Hiệp (xã Liên Hiệp, huyện Đức Trọng) đã xây dựng nhiều mô hình giúp hội viên phát triển kinh tế gia đình, mang lại nguồn thu nhập chính đáng và góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy phong trào hoạt động của Hội.

22/08/2014
Triển Khai Nghị Định 67 Về Phát Triển Thủy Sản Triển Khai Nghị Định 67 Về Phát Triển Thủy Sản

Nghị định 67/2014/NĐ-CP về một số chính sách phát triển thủy sản là chính sách có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của ngành thủy sản, đặc biệt là với nghề đánh bắt thủy sản xa bờ, sẽ có hiệu lực vào ngày 25/8 tới.

22/08/2014
Từ 25-8, Ngân Hàng Được Cấp Bù Lãi Suất Cho Vay Phát Triển Thủy Sản Từ 25-8, Ngân Hàng Được Cấp Bù Lãi Suất Cho Vay Phát Triển Thủy Sản

Ngày 22-8, Bộ Tài chính cho biết, Thứ trưởng Trần Xuân Hà vừa ký ban hành Thông tư số 114/2014/TT-BTC hướng dẫn cấp bù lãi suất do thực hiện chính sách tín dụng theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP ngày 7-7-2014 của Chính phủ về một số chính sách phát triển thủy sản.

22/08/2014
Na Lạng Sơn Vào Vụ Na Lạng Sơn Vào Vụ

Năm nay là năm thứ 3 na ở đây được mùa, được giá. Diện tích na ở hai huyện Chi Lăng và Hữu Lũng có khoảng 1.300ha, sản lượng trung bình đạt trên 6.000 tấn/năm. Đây là vùng na lớn nhất các tỉnh phía Bắc.

22/08/2014