Đông đúc cò lúa
Việc cò lúa xuất hiện từ khi nào không ai nhớ rõ
Việc xuất hiện đối tượng mối lái này đã giúp tiêu thụ nông sản được nhanh chóng, dễ dàng hơn, nông dân chấp nhận họ. Nhưng nhìn vào bản chất “cò” ra đời quá nhiều không phải là dấu hiệu tích cực, vì lợi nhuận ít ỏi từ hạt lúa của người nông dân tiếp tục bị qua tay, phân chia nhiều người.
Theo nhiều nông dân, việc cò lúa xuất hiện từ khi nào không ai rõ, nhưng từ sau tình trạng lúa ế, ẩm mốc dẫn đến việc nông dân phải bán tháo cho các cơ sở sản xuất thức ăn gia súc vào năm 2008 thì hoạt động của đối tượng “cò” càng trở nên phổ biến, rầm rộ.
Trong khi Chính phủ khuyến khích doanh nghiệp xuất khẩu phải mua lúa trực tiếp từ nông dân, nhưng trên thực tế doanh nghiệp cần gạo còn nông dân có lúa, diện tích lúa manh mún và nhiều giống khác nhau.
Vì thế doanh nghiệp không đủ lực để mua trực tiếp nên phải thông qua “cò” để nắm bắt thông tin chính xác, giảm chi phí. Từ đó lực lượng “cò” ngày một đa dạng với đủ loại hình như: lúa, mía, rơm, máy cắt, kể cả dịch vụ mới phát triển gần đây là máy hút rơm.
Ông Huỳnh Hữu Đông, xã Vị Trung, huyện Vị Thủy (Hậu Giang) có 12 công ruộng gieo sạ giống IR50404 cho hay: “Bây giờ thương lái đông nhưng để bán được lúa không phải dễ, mình không quen là họ kỳ kèo giá cả không thuận mua thuận bán, có cò thì việc gì cũng dễ dàng, nhanh gọn”.
Không chỉ là trung gian tiêu thụ lúa nhiều “cò” còn kiêm luôn việc kêu máy gặt, máy hút rơm… Ông Phạm Văn Thành, xã Hòa An, huyện Phụng Hiệp (Hậu Giang) sở hữu 2 chiếc máy gặt đập liên hợp cho biết, mỗi năm, vào mùa thu hoạch lúa ông thường đưa máy đi cắt tại Phụng Hiệp và Thới Lai có khi xa hơn để cắt thuê.
Giá cắt lúa từ 270.000 - 280.000 đồng/công, trừ chi phí mỗi công lời khoảng 80.000 đồng, nhưng do không rành địa bàn nên phải nhờ đến “cò”.
“Làm nghề này mà không có “cò” thì khó lắm, mình không có thời gian cũng như nhân lực để tự kiếm khách hàng, trong khi “cò” có lợi thế là người dân địa phương, có thời gian rảnh rỗi, lại quan hệ tốt với nông dân nên alo cho họ một tiếng là xong”, ông Thành cho biết.
Tương tự, theo bà Đỗ Thị Yến, chủ ghe thu mua lúa trên địa bàn tỉnh Hậu Giang, thương lái chỉ cần bỏ ra số tiền 3 triệu đồng để “cò” tìm chỗ trước rồi báo lại khi đó đưa ghe vô gom lúa chừng nửa buổi là đầy, vừa tiết kiệm chi phí vừa đỡ mất thời gian. Nhờ “cò” mà mỗi chuyến tôi giảm chi phí khoảng vài triệu đồng.
Chính vì ai cũng cần “cò” nên nó trở thành nghề đang cho thu nhập cao. Không cần đầu tư thiết bị, máy móc, chỉ cần chiếc xe và điện thoại di động là có thể hành nghề. Do được phân chia từ 2 nguồn là nông dân và thương lái nên một ngày chạy thu nhập có thể lên đến cả triệu đồng, cao gấp nhiều lần so với nông dân và có khi hơn cả thương lái.
Đáng buồn là hiện nay việc “cò” gian lận, sử dụng nhiều chiêu trò để trục lợi trên sức lao động của người khác ngày càng phổ biến. Do phần lớn việc thương thảo mua bán, giá cả đều do “cò” đứng ra đảm nhận nên việc báo giá chênh lệch là chuyện thường xuyên xảy ra.
Như trường hợp của ông Phạm Văn Đông, xã Vị Trung, huyện Vị Thủy, lúa của gia đình ông đã sắp đến ngày cắt, nhưng không liên lạc được với “cò lúa”, phải chạy đôn chạy đáo tìm “cò” mấy ngày nay.
Đến khi tìm được, họ ngã giá, đặt cọc, với giá giảm gần 200 đồng/ký so với thị trường. Không chỉ nông dân mà chủ bạn hàng mua rơm cũng bị “cò” vượt mặt.
Ông Phạm Văn Tý làm nghề trồng nấm rơm nhiều năm cho biết, để có rơm phải trả cho “cò” mỗi công ruộng từ 20-50 ngàn đồng, tuy nhiên nhiều lúc “cò” kê khống số lượng để hưởng lợi.
“Cò” nói bao nhiêu thì trả tiền bấy nhiêu, mình chỉ phát hiện mánh khóe của họ khi so sánh lượng rơm mà họ giao với lượng rơm mình tự thu mua về.
Nhờ có “cò” mà thương lái giảm được chi phí, đỡ mất thời gian rong ruổi nhiều nơi. Bà con mua bán cũng nhanh hơn. Nhưng với sự xuất hiện ngày càng nhiều “cò” mà không chịu sự kiểm soát nào, thì người chịu thiệt vẫn là nông dân.
Nếu nông dân liên kết sản xuất thông qua hình thức hợp tác xã, nạn "cò" sẽ giảm.
Có thể bạn quan tâm
Nhận định được những khó khăn gặp phải, Nghị quyết Đảng bộ huyện lần thứ hai huyện Pác Nặm đã giảm chỉ tiêu phát triển đàn trâu, bò đến năm 2015 xuống còn 23.000 con. Tuy đã giảm nhưng để hoàn thành được chỉ tiêu này đòi hòi những giải pháp tích cực hơn nữa của ngành hữu quan.
Ngày 21-8, trên sông Tiền, thuộc địa bàn phường Long Thạnh, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang, Trung tâm giống thủy sản, Chi cục Thủy sản và Hiệp hội Thủy sản tỉnh An Giang (AFA) cùng với nhân dân trong tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, thành phố Cần Thơ đã tổ chức "Thả cá tái tạo nguồn lợi thủy sản trên sông Tiền".
Ông Nguyễn Hạnh có thâm niên đánh bắt, thành viên Nghiệp đoàn khai thác hải sản phường Phước Hội (Bình Thuận) có 2 chiếc tàu công suất lớn: 285 CV, 485 CV với hơn 20 thuyền viên hành nghề câu khơi. Vụ cá nam này, 2 chiếc đều bám biển ngoài khơi, nhà giàn DK1, phía Nam đảo Côn Sơn hơn cả tháng, khai thác được 3- 4 tấn cá các loại có giá trị như: cá cam, ngừ, hà lan, sơn đỏ nhưng giá cá bán tại cảng La Gi hạ làm thu nhập giảm sút.
Ở Phú Yên, phân bò đang trở nên đắt hàng, được xuất bán ra nhiều tỉnh. Có những thời điểm mưa kéo dài, giá phân bò xuống thấp nhưng nhiều người vẫn đổ xô đem bán, trong khi đó các cánh đồng đang kiệt sức vì thiếu phân bò làm ”vốn” dinh dưỡng.
Thống kê sơ bộ của Cục Trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), mỗi địa phương vùng ĐBSCL canh tác khoảng 20-30 giống lúa khác nhau cho mỗi vụ lúa. Nhiều ý kiến cho rằng: Trong cùng một cánh đồng, sản xuất nhiều giống khác nhau khiến chất lượng lúa gạo không đồng đều và giá trị thương mại của sản xuất lúa gạo không cao.