Độ đục, độ trong nước ao nuôi
Độ trong, độ đục cũng là một trong những yếu tố không kém phần quan trọng cần kiểm soát trong ao nuôi thủy sản. Nhằm tránh được các tác động xấu của nó lên sức khỏe động vật thủy sản, cũng như môi trường ao nuôi.
Ba tỉnh dẫn đầu
Tỉnh có diện tích tôm – lúa lớn nhất là Kiên Giang với 77.264 ha.
Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản Kiên Giang, bà Nguyễn Thị Than Nga, cho biết, tôm – lúa tập trung ở các huyện An Biên, An Minh, Vĩnh Thuận, Gò Quao, Hòn Đất, Kiên Lương.
Trong giai đoạn 2010 – 2015, diện tích tôm – lúa tăng bình quân hằng năm 7,1%; Năng suất năm 2010 trung bình 300 kg/ha, tăng lên 373 kg/ha năm 2014.
Riêng năm 2015, đến tháng 10, diện tích này vượt kế hoạch 9,1%, sản lượng thu hoạch 26.699 tấn, đạt 94%.
Năng suất tôm nuôi trung bình năm 2015 giảm so năm 2014 do thời tiết nắng nóng, một số vùng tôm bị chết.
Tôm sú được nuôi phổ biến, từ tháng 1 – 8 hàng năm.
Sau khi thu hoạch tôm, rửa mặn để làm lúa, các giống OM2517, ST5, năng suất đạt 4 – 5 tấn/ha, cá biệt có vùng 6 – 7 tấn/ha.
Từ năm 2012, tôm thẻ chân trắng cũng được thả nuôi trên ruộng lúa.
Từ năm 2014, thêm tôm càng xanh xen canh với tôm sú.
Năm 2015, có 3.578 ha thả tôm càng xanh, thu hoạch 2.420 tấn, năng suất đạt 676 kg/ha.
Thứ hai là tỉnh Cà Mau với 51.570 ha trong năm 2015, tính đến tháng 10, chiếm 17,9% diện tích nuôi tôm nước lợ 262.915 ha của tỉnh.
Cà Mau bắt đầu tôm -lúa khá sớm, từ năm 2000, tập trung ở các huyện Thới Bình, U Minh, Trần Văn Thời, Cái Nước và thành phố Cà Mau.
Những năm đầu chưa có kinh nghiệm, năng suất chỉ 100 – 200 kg/ha.
Giai đoạn 2005 – 2015, diện tích tăng nhanh và năng suất cũng tăng, tôm 320 – 350 kg/ha, còn lúa 4 – 4,1 tấn/ha.
Ở Cà Mau, nuôi trong ruộng lúa cũng có tôm sú, tôm thẻ chân trắng và tôm càng xanh.
Luân canh tôm – lúa khá đa dạng về hình thức: 1 vụ tôm 1 vụ lúa, 1 vụ tôm và 1 vụ lúa có thả xen tôm, cua.
Trong đó, tôm sú phổ biến nhất, còn tôm càng xanh và cua thả xen ghép.
Bạc Liêu đứng thứ ba với diện tích tôm – lúa 29.867 ha ở thời điểm hiện nay.
Ông Phạm Thanh Thuận ở Sở NN&PTNT cho biết, tôm – lúa bắt đầu thực hiện năm 2001 với 5.851 ha và tăng nhanh qua các năm; tập trung ở huyện Hồng Dân, Phước Long, Giá Rai, Vĩnh Lợi.
Nơi đây có đặc điểm là diện tích trồng lúa sau nuôi tôm còn thấp, hiện mới chiếm khoảng 30% diện tích đã nuôi tôm; bởi, mùa mưa đến muộn mà kết thúc sớm, thiếu nước ngọt rửa mặn đồng ruộng.
Hằng năm, Bạc Liêu nuôi tôm từ tháng 2 và kết thúc vào tháng 7, sang tháng 8 – 9 sạ lúa lúa giống dài ngày, hoặc từ tháng 9 đến 10 sạ giống ngắn ngày.
Tôm sú đạt năng suất bình quân 300 – 400 kg/ha, thu lãi 35 – 40 triệu đồng/ha.
Ngoài tôm sú cũng thả tôm thẻ chân trắng, tôm càng xanh và cua.
Lúa phổ biến là giống một bụi đỏ, OM5451, OM2017, HS182, năng suất 4,5 – 6 tấn/ha.
Hạn chế tối đa rủi ro
Hiện có nhiều hình thức luân canh tôm – lúa như: Nuôi bán thâm canh 1 vụ tôm và 1 vụ lúa phát triển từ năm 2010.
Với tôm sú, tôm – lúa cho lợi nhuận trung bình khoảng 54 triệu đồng/ha/năm; trong đó, lợi nhuận từ tôm khoảng 30 triệu đồng (45%).
Tôm thẻ chân trắng đạt lợi nhuận cao hơn, 69,1 triệu đồng/ha; trong đó, lợi nhuận từ tôm khoảng 55 triệu đồng (79%).
Sự khác biệt này chủ yếu do thả giống tôm thẻ chân trắng 20 – 30 con/m2, còn tôm sú chỉ 10 con/m2.
Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế thì tôm sú lại cao hơn vì đầu tư ít.
Trong luân canh tôm – lúa, chi phí cho sản xuất lúa thấp hơn nhiều so với chuyên canh lúa vì giảm phân bón, thuốc bảo vệ thực vật.
Cạnh đó, thả thêm cua còn cho thu nhập khoảng 20 triệu đồng/ha.
Hình thức này, thích hợp với diện tích nhỏ.
Nuôi bán thâm canh 2 vụ tôm, 1 vụ lúa, phát triển với tôm thẻ chân trắng do nuôi một vụ chỉ 60 – 90 ngày.
Có hộ gia đình thu nhập một năm khoảng 236 triệu đồng/ha, trong đó tôm chiếm 89%; tuy nhiên, hiệu quả thấp do đầu tư cao, lợi nhuận chi khoảng 100 triệu đồng.
Rủi ro cũng cao, nghiên cứu ở tỉnh Sóc Trăng trong năm 2015, có đến 21,9% số hộ lỗ nuôi tôm, 15,6% số hộ lỗ trồng lúa.
Ở tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu cũng có nhiều hộ bị lỗ nhưng tỷ lệ thấp hơn ở Sóc Trăng.
Nuôi tôm quảng canh cải tiến và 1 vụ lúa, phát triển 15 năm nay, có nhiều thay đổi, cải tiến về kỹ thuật và đang đi sâu vào vùng lúa năng suất thấp ở các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu.
Thường từ tháng 1 đến 8 là nuôi tôm, tháng 9 – 12 làm lúa.
Luân canh tôm – lúa cho hiệu quả kinh tế cao hơn hẳn chuyên canh tôm hoặc lúa.
Khảo sát nuôi tôm quảng canh cải tiến và 1 vụ lúa: tỉnh Bạc Liêu thu 77,8 triệu đồng/ha/năm, lời 55,4 triệu; Cà Mau thu 54,2 triệu đồng/ha, lời 39,1 triệu; Kiên Giang thu 81,4 triệu đồng/ha, lời 50,9 triệu.
Thu nhập ở tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau cao hơn vì có thả kết hợp tôm càng xanh.
Xét tỷ suất lợi nhuận trên đồng vốn đầu tư, có thể thấy là khá cao 1,67 – 2,59 lần.
Về hiệu quả xã hội và môi trường, nuôi tôm quảng canh cải tiến và 1 vụ lúa là bền vững nhất trong các mô hình tôm – lúa hiện nay; đầu tư thấp nên phù hợp với điều kiện tài chính và trình độ của đa số nông hộ.
Mức độ rủi ra cũng thấp hơn các mô hình tôm – lúa khác.
Nghiên cứu năm 2015, số hộ bị lỗ ở Cà Mau và Bạc Liêu chỉ khoảng 3 – 6%, thấp hơn rất nhiều nuôi tôm bán thâm canh và lúa ở tỉnh Sóc Trăng là 14 – 21%.
Nuôi tôm thưa, lượng thức ăn bổ sung thấp nên còn được xem là mô hình canh tác thông minh dưới tác động của biến đổi khí hậu, cả ba mặt: an ninh lương thực, khả năng thích ứng và giảm phát thải.
Tuy nhiên, nuôi tôm quảng canh cải tiến và 1 vụ lúa cũng có nhược điểm là phụ thuộc vào thời tiết nên khó chủ động.
Năng suất và tỷ lệ tôm sống thấp.
Sản xuất nhỏ lẻ nên khó tiếp cận với đại lý lớn.
Nguồn gốc
Độ đục của nước liên quan đến số lượng của vật chất nằm lơ lửng trong nước, là khả năng cản những tia nắng mặt trời và độ trong của nước là khả năng cho ánh sáng xuyên qua nước.
Độ đục có thể là kết quả từ nhiều nguồn khác nhau.
Có thể do nguồn nước, nước rửa trôi, bụi phóng xạ từ không khí.
Hoặc do chuyển động của dòng nước, của tôm cá, do thức ăn thừa, hay chất thải của tôm cá nuôi, sự phát triển của tảo… Độ đục sẽ khác nhau phụ thuộc vào vị trí ao, nguồn cấp nước, đối tượng nuôi ở những ao nuôi khác nhau.
Độ trong nước ao nuôi chủ yếu phụ thuộc vào số lượng và đặc tính khối chất cái (seston) trong nước, đó là tập hợp các sinh vật và các thể vẩn lơ lửng trong nước.
Tác động
Độ đục quá cao (độ trong thấp) sẽ có những tác động bất lợi cho hệ sinh vật dưới nước và sức khỏe chung của cả ao, gây giảm năng suất ao nuôi.
Độ đục cao làm giảm ánh sáng mặt trời xâm nhập vào trong nước qua đó ức chế sự tăng trưởng của thực vật phù du, giảm sản xuất ôxy trong ao.
Khi độ đục quá cao, sẽ làm cho cá hô hấp khó khăn do lượng phù sa lắng tụ trên nền đáy, bao phủ trên mang cá, cường độ bắt mồi giảm.
Cá sẽ bị thiếu ôxy và nổi đầu vào lúc sáng sớm.
Điều này có thể dẫn đến tỷ lệ tăng trưởng kém, nếu bùn nhiều quá mức có thể gây kích ứng mang cá, dập trứng cá và gây chết ngạt ở các cộng đồng động vật thủy sinh.
Ở tôm, nếu độ đục cao có thể gây ra chênh lệch nhiệt độ và phân tầng ôxy hòa tan trong ao nuôi.
Nó cũng có thể gây ra tắc nghẽn mang tôm hoặc gây chấn thương trực tiếp đến các mô của tôm.
Ngược lại, nếu độ trong quá cao, nước nghèo dinh dưỡng, sinh vật phù du kém phát triển sẽ hạn chế thành phần thức ăn tự nhiên của cá, tôm làm giảm năng suất nuôi trong ao.
Đối với các ao nuôi nước quá trong sẽ làm cá nuôi trở nên nhạy cảm, sợ và bỏ ăn.
Đặc biệt, với các ao ương giống sẽ làm giảm tỷ lệ sống trong khi ương một cách đáng kể do thiếu hụt lượng thức ăn tự nhiên.
Độ trong thích hợp cho các ao nuôi cá 20 – 30 cm, đối với ao nuôi tôm 30 – 45 cm.
Độ trong của ao được xác định qua một dụng cụ là đĩa Secchi có đường kính 20 cm.
Độ đục được đo bằng độ hấp thụ ánh sáng hoặc hàm lượng tổng chất rắn lơ lửng.
Hoặc theo kinh nghiệm, có thể đo độ trong bằng cách cho cánh tay xuống ao, sao cho nước ngập đến khuỷu tay rồi quan sát, nếu không nhìn thấy bàn tay là nước đạt độ trong tương đối thích hợp.
Kiểm soát và quản lý
Quản lý độ đục từ nguồn nước: Chứa nước đục trong ao để lắng; Chọn nguồn nước cấp thích hợp; Khoanh nguồn nước đọng để tránh gây xói mòn bờ ao.
Quản lý độ đục bên trong ao: Nếu độ đục nước cao, phương pháp đơn giản là tiến hành thay nước.
Tuy nhiên, cần lựa chọn thời điểm thay nước thích hợp, nên cấp nước vào lúc nước sông đang lớn, tránh thời điểm lũ đang về.
Đồng thời, có thể loại bỏ hạt lơ lửng trong ao bằng muối vô cơ như nhôm sunfat (Al2 (SO4)3) để tạo kết tủa và lắng tụ.
Hay sử dụng thực vật phù du như hạt nhân cho sự kết đông, bón phân giúp kích thích sự phát triển của các thực vật nổi, từ đó các tế bào thực vật lấy đi những hạt đất sét.
Ngược lại, nếu độ trong của nước quá cao, người nuôi cần kiểm tra lại pH trong ao nuôi.
Nếu pH thấp thì phải bón thêm vôi, kết hợp bón phân và sử dụng các hóa chất gây màu nước nhằm cung cấp dinh dưỡng, kích thích tảo phát triển làm giảm độ trong của nước.
Đồng thời, cần gom tụ chất thải và tránh khuấy động trong ao, loại bỏ chất thải ra khỏi ao nuôi.
Song song với đó là vẫn đề quản lý tốt thức ăn và màu nước trong ao nuôi.
Nếu ao nuôi quản lý tốt được các yếu tố môi trường, gây ra ít biến động (trong đó có độ đục, độ trong) sẽ làm cho động vật thủy sản không bị stress, ít dịch bệnh, tiết kiệm được chi phí nuôi và tăng hiệu quả kinh tế.
Có thể bạn quan tâm
Nghề nuôi tôm càng xanh đã tồn tại hàng chục năm nay tại Ấn Độ. Từ hoạt động nuôi nhỏ lẻ, mang tính tự phát, ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường, hiệu quả kinh tế không cao, Ấn Độ đã dần có nhiều biện pháp nuôi hiệu quả và luôn hướng tới tính bền vững.
Tôm càng xanh (tên khoa học Macrobrachium rosenbergii), còn gọi là tôm lớn nước ngọt hay tôm Malaysia (theo cách gọi của người Âu-Mỹ), là một loài tôm nước ngọt có nguồn gốc ở vùng Thái Bình Dương – Ấn Độ Dương và bắc Úc.
Tôm biển có hệ miễn dịch rất đặc biệt. Ngoài miễn dịch tế bào với sự tham gia của tế bào bạch cầu với hai quá trình cơ bàn là melanin hóa