Chưa vội phát triển cây mắc ca
Ở Khánh Sơn, cây mắc ca đã được trồng từ vài năm nay. Trước khi huyện triển khai trồng thí điểm đã có hộ trồng loại cây này, thậm chí nhiều cây đã cho quả.
Theo chỉ dẫn của người dân địa phương, chúng tôi tìm đến vườn cây của gia đình ông Lê Văn Bi (thôn Dốc Trầu, xã Ba Cụm Bắc).
Ông Bi cho hay, cách đây mấy năm ông mua lại vườn cây của một người dân địa phương, khi đó trong vườn đã trồng sẵn mắc ca xen với sầu riêng.
Nghe nói mắc ca là loại cây “tỷ đô” nên dù cải tạo lại vườn tược, gia đình ông cũng không chặt bỏ cây này vì cây đã trồng được nhiều năm, bắt đầu cho quả.
“Trong vườn nhà tôi hiện có hơn 100 cây mắc ca, trong đó hơn 10 cây đã cho quả”, ông Bi cho hay.
Nông dân Khánh Sơn còn băn khoăn về đầu ra của cây mắc ca
Gia đình ông Hồ Văn Anh (thôn Liên Hòa, xã Sơn Bình) là 1 trong 5 hộ dân ở xã Sơn Bình được lựa chọn để trồng thí điểm 1,5ha cây mắc ca.
Đến nay, tỷ lệ cây sống rất cao, cây đã phát triển lên hơn 1,3m. Khi quyết định tham gia mô hình này, ông Anh cho rằng đây là cây trồng mới, cứ thử nghiệm xem như thế nào rồi tính tiếp.
Tuy nhiên, thời gian gần đây nghe nhiều thông tin trái chiều về cây mắc ca nên ông lo lắng: “Chúng tôi không rõ trồng mắc ca có hiệu quả hay không, bởi phải 6 - 7 năm cây mới cho quả; trong khi đó giá cả bao nhiêu, đầu ra thế nào, ai thu mua chúng tôi đều không rõ”.
Được biết, tháng 7-2014, huyện Khánh Sơn đã tiến hành trồng thử nghiệm cây mắc ca trên địa bàn 8 xã, thị trấn để xác định xem loại cây này có phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng của các địa phương hay không. Diện tích trồng thí điểm là 6,9ha.
Qua đánh giá sơ bộ của cơ quan chức năng, hiện cây mắc ca đang phát triển tốt, tỷ lệ sống đạt 95%, cây đã cao hơn 1,3m.
Theo lãnh đạo địa phương, để người dân tận dụng được quỹ đất sản xuất, sau khi đến các tỉnh Tây Nguyên nghiên cứu, huyện đã quyết định trồng thử nghiệm một loại cây trồng khác phù hợp với điều kiện thực tế là cây mắc ca - một dạng cây rừng; nếu trồng 5 - 7 năm mà sản lượng quả không đạt vẫn có thể trở thành cây lấy gỗ.
Trở lại câu chuyện với người trồng mắc ca ở Khánh Sơn, điều khiến nhiều hộ dân quan tâm là đầu ra của sản phẩm này ra sao?
Ông Lê Văn Bi cho biết: “Qua tìm hiểu, thông tin về mắc ca cũng trái chiều, có người ủng hộ, có người không. Theo tôi biết, ở Khánh Hòa chỉ có Khánh Sơn trồng thí điểm loại cây này và chỉ có một số cây trong vườn nhà tôi đã cho quả.
Mới đây, gia đình tôi thu hoạch 4 cây mắc ca được hơn 20kg quả. Nhưng thu hoạch xong lại cất vào kho chứ không biết bán ở đâu, không thấy thương lái hỏi mua; giá cả bao nhiêu tôi cũng không rõ. Vì vậy, mỗi khi có khách đến tìm hiểu loại cây này, tôi lại mang quả ra đãi khách. Tôi nghĩ cần phải thận trọng khi phát triển loại cây này”.
Trao đổi với chúng tôi, ông Đinh Ngọc Bình - Chủ tịch UBND huyện Khánh Sơn cho biết: “UBND huyện cũng rất thận trọng trong việc phát triển các loại cây trồng mới để không làm ảnh hưởng đến thu nhập của người dân.
Đối với mắc ca, hiện chỉ dừng lại ở mức độ thí điểm, không phát triển thêm diện tích mới để chờ một thời gian nữa, sau khi đánh giá chính xác về sự thích nghi, hiệu quả cụ thể thì mới quyết định. Chỉ khi mắc ca thích nghi tốt và cho hiệu quả kinh tế cao, đầu ra ổn định, UBND huyện mới có kế hoạch nhân rộng, phát triển diện tích phù hợp”.
Theo Hướng dẫn tạm thời kỹ thuật nhân giống, trồng, chăm sóc, thu hái và chế biến hạt cây mắc ca của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, mắc ca phải được trồng ở những nơi có nhiệt độ thích hợp nhất, vào khoảng 20 - 250C, với lượng mưa bình quân năm từ 1.600 - 2.500mm.
Đồng thời, nơi trồng cần đạt độ cao từ 10 - 1.200m so với mặt nước biển và ít có gió phơn, sương muối và mưa phùn. Mắc ca thích hợp nhất với những nơi có độ dày tầng đất trên 50cm, thoát nước tốt và giàu hữu cơ. Không được trồng mắc ca ở những nơi đất cát, ngập úng hoặc chua phèn. Địa hình thích hợp nhất là bằng phẳng (độ dốc dưới 20 độ).
Có thể bạn quan tâm
Sau 2 ngày có chỉ đạo của Đại tướng Trần Đại Quang, Bộ trưởng Bộ Công an, về việc làm rõ đúng, sai trong vụ tạm giữ 1,8 tấn bạch tuộc tại Hải Dương, Công an tỉnh này đã nhận sai và bồi thường số tiền 650 triệu đồng cho các ngư dân ở huyện Cần Giờ (TPHCM) vì số hàng đã bị hỏng.
Nhờ được học nghề trồng dâu, nuôi tằm bài bản, nhiều hộ dân xã Bắc Bình (Lập Thạch, Vĩnh Phúc) bây giờ đang có thu nhập cao từ nghề này và tạo việc làm cho hàng trăm lao động.
Để thu được một triệu đồng tiền lãi từ nuôi các loài cá truyền thống (cá trắm, cá mè, cá trôi, cá chép…), một người nông dân có thể phải sử dụng đến hàng trăm m2 ao nuôi, nhưng với anh Nguyễn Hữu Tân, ở tổ 1, phường Tân Quang, thị xã Tuyên Quang (tỉnh Tuyên Quang), chỉ với 3 chiếc lồng nuôi cá, rộng 8 m2 mỗi lồng, trung bình hàng năm đem về cho anh 70-80 triệu đồng tiền lãi.
Sau 23 năm phục vụ quân đội, năm 1990 ông Năng Văn Tuyến, thôn Quan Ngoại, xã Tam Quan (Tam Đảo) trở về địa phương với hai bàn tay trắng. Kinh tế gia đình ông ngày càng khó khăn và vất vả, bởi nguồn thu nhập gia đình lúc đó chủ yếu dựa vào 5 sào ruộng. Năm 1996, ông Tuyến đã bàn với gia đình mua 2 mẫu diện tích đất đồi của HTX với thời gian 50 năm để trồng cây ăn quả và chăn nuôi.
Mô hình chăn nuôi bò sữa trên địa bàn huyện Khoái Châu (Hưng Yên) được bắt đầu phát triển từ năm 2003 với sự hỗ trợ theo chương trình đề án chăn nuôi bò sữa của tỉnh, triển khai tại các xã vùng màu, vùng bãi, vùng bối. Tuy nhiên, sau một thời gian đàn bò sữa trên địa bàn huyện bị giảm do một số con bị ốm không chữa được, do đẻ khó, một số con sau khi nuôi bị vô sinh, sữa kém nên phải loại thải. Thị trường tiêu thụ sữa gặp khó khăn, giá sữa xuống thấp trong thời gian dài, người chăn nuôi bò sữa được lãi thấp, thậm chí bị thua lỗ nên một số hộ đã bán bò để thu hồi vốn trả nợ ngân hàng. Cùng thời điểm, giá bò lai sind giá lên cao, lãi nhiều, chăn nuôi lại đơn giản hơn bò sữa, nhiều hộ giảm bò sữa chuyển sang chăn nuôi bò lai sind, lấy giống cho bò sữa bằng bò lai sind. Bên cạnh đó, lực lượng cán bộ thú y còn mỏng, thiếu kinh nghiệm trong việc chẩn đoán, điều trị bệnh và thụ tinh nhân tạo; giá đầu vào như thức ăn tinh, công lao động, thuốc thú y... tăng cao trong khi giá sữa lại thấp và kéo dài, làm cho chăn nuôi