Chè VietGAP bên sườn Tam Đảo
Xã Mỹ Yên (huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên) nằm bên sườn dãy Tam Đảo. Bao đời nay, người Mỹ Yên chỉ quen với cách làm chè truyền thống nên hiệu quả chưa cao.
Sản xuất chè theo quy trình VietGAP tại Mỹ Yên
Từ khi bắt tay vào xây dựng chứng nhận thương hiệu cho sản phẩm chè VietGAP, bà con đã định hình được hướng đi cho mình.
Xây dựng chứng nhận
Đầu năm 2015, Ban Quản lý SX chè huyện Đại Từ đã triển khai mô hình SX chè theo quy trình VietGAP trên diện tích 5ha với 28 hộ xã viên của Hợp tác xã SX chè an toàn Bắc Hà (xóm Bắc Hà 1 và Bắc Hà 2) tham gia.
Anh Lê Văn Hậu, cán bộ phụ trách mô hình cho biết, khó khăn lớn nhất khi triển khai mô hình là các hộ tham gia đang SX chè theo phương thức truyền thống, công nghệ chế biến lạc hậu, khu vực chế biến bừa bãi, trang thiết bị phục vụ cho SX và chế biến chè chưa đáp ứng được yêu cầu theo kỹ thuật mới. Các loại trang bị quần áo bảo hộ lao động, dụng cụ lao động và hóa chất chưa có nơi bảo quản riêng. Đặc biệt, bà con chưa có thói quen ghi chép sổ nhật ký nông hộ.
Sau khi được cán bộ Ban Quản lý chè huyện Đại Từ tập huấn cách trồng, chăm sóc, chế biến chè an toàn theo quy trình VietGAP và ghi chép sổ nhật ký nông hộ, bà con đã dần thích nghi và mạnh dạn áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Sau nhiều nỗ lực của các hộ tham gia mô hình, đến tháng 10/2016, Hợp tác xã đã được Trung tâm Kiểm định chất lượng giống và vật tư hàng hóa nông nghiệp tỉnh cấp cấp Giấy chứng nhận sản xuất chè an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP TCCN (có giá trị 2 năm, diện tích 5 ha của 28 hộ dân).
Thuần thục
Ông Lê Tự Đức (xóm Bắc Hà 2, xã Mỹ Yên) nói làu làu, SX chè theo quy trình VietGAP (thực hành nông nghiệp tốt) là một chứng nhận giúp giám sát hoạt động SX, chế biến và kinh doanh chè bền vững, an toàn và truy nguyên nguồn gốc sản phẩm. Chứng nhận đem lại lợi ích cho người SX, thị trường và người tiêu dùng, bảo vệ môi trường sinh thái.
Thực tế cho thấy, dù năng suất chè búp tươi SX theo tiêu chuẩn VietGAP không cao hơn nhiều so với diện tích chè ngoài mô hình nhưng sản phẩm chè búp khô đã không còn dư lượng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV), đạt tiêu chuẩn theo quy trình của Bộ NN-PTNT quy định.
Bà con làm chè ở xóm Bắc Hà 1 và Bắc Hà 2 đã biết sử dụng thuốc BVTV đúng danh mục được phép sử dụng trên cây chè, đảm bảo theo nguyên tắc 4 đúng (đúng thuốc; đúng nồng độ và liều lượng; đúng lúc; đúng cách), ưu tiên sử dụng thuốc có nguồn gốc sinh học góp phần hạn chế nguy cơ gây ô nhiễm môi trường; bảo đảm sức khỏe của người lao động, thu hoạch và xử lý sau thu hoạch; giữ cân bằng hệ sinh thái…
Ông Nguyễn Văn Dũng (xóm Bắc Hà 2) cho biết, nghĩ lại cách chăm sóc cây chè trước đây mà sợ. Ai đời lại phun thuốc trừ sâu theo định kỳ. Cách phun thì vô tội vạ, phun cộng 2 - 3 loại thuốc cùng một lúc, phun thuốc này chưa đạt thì phun thuốc khác. Cứ phun bao giờ không thấy sâu nữa mới thôi, bất luận thời điểm cách ly, kể cả chè sắp thu hái…
Thế rồi cách bón phân cũng kỳ lạ và thật thiếu hiểu biết, trong xóm, ngoài làng, mọi người cứ thấy trời mưa là mang phân ra vã vào gốc chè. Chăm sóc đã vậy, cách chế biến cũng đơn giản và lạc hậu. Chè mang về đưa vào vò rồi mang ra sao suốt, thế là xong. Bây giờ, giáo viên VietGAP đã về xóm, cùng ăn, cùng ở với dân để hướng dẫn chúng tôi chuyển đổi quy cách SX. Theo đó, các xã viên bây giờ chỉ phun thuốc trừ sâu khi thật cần thiết.
Việc phun phải thực hiện theo nguyên tắc "4 đúng". Thuốc chọn phun phải là loại thuốc đã được cho phép sử dụng trên cây chè. Quá trình chế biến được chia nhỏ thành 4 công đoạn để chè tạo hương, đậm vị. Cụ thể, chè nguyên liệu hái về phải được làm héo trước khi đưa vào sao diệt men. Sau đó mới thực hiện vò tạo cánh. Quá trình sao cũng chia thành sao 2 và sao 3. Giữa 2 công đoạn sao, chè được đưa ra rải đều trên nong nia để lấy thêm hương.
Anh Lê Văn Hậu, cán bộ phụ trách mô hình cho biết, cái lợi lớn nhất là môi trường và sức khỏe của người dân được bảo vệ tốt hơn. Không chỉ tăng hiệu quả kinh tế mà số lần phun thuốc BVTV cho cây chè cũng giảm từ 1 đến 3 lần so với trước đây. Ý thức người dân về việc SX sản phẩm chè an toàn đã được nâng lên rõ rệt.
Đến nay, các hộ dân đã nắm chắc quy trình SX và chế biến chè theo tiêu chuẩn VietGAP, cũng như tiếp cận được quy trình SX hàng hoá chất lượng cao, biết được tính cấp thiết của vấn đề an toàn thực phẩm; đảm bảo sản phẩm SX ra đạt tiêu chuẩn chất lượng.
Bà Chu Thị Nhì (Chủ tịch UBND xã Mỹ Yên) cho hay, SX chè theo tiêu chuẩn VietGAP, chất lượng chè thành phẩm được nâng lên, hiệu quả kinh tế từ cây chè cũng tăng lên. Trước đây, vào chính vụ, mỗi kg chè búp không chỉ bán được với giá 120 nghìn đồng thì nay đã bán được với giá 150 thậm chí là 300 nghìn đồng.
Từ những thành công trên, xã Mỹ Yên đang vận động các hộ dân trong xã, đặc biệt là 5 xóm SX chè chuyên canh nhân rộng mô hình theo quy trình VietGAP, từ đó tạo ra sản phẩm hàng hóa chất lượng cao, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân.
Theo tính toán của bà Nhì, hiện xã có hơn 400ha chè, năng suất chè đạt khoảng 100 - 115 tạ chè búp tươi/ha/năm; thu nhập bình quân từ 1ha chè đạt gần 100 triệu đồng/ha. Nếu áp dụng quy trình VietGAP vào SX chè, chi phí đầu tư sẽ giảm khoảng 10 - 15% (do giảm lượng thuốc BVTV); giá trị kinh tế sẽ tăng ít nhất 15% (khoảng 15 triệu đồng/ha/năm). Đặc biệt, Mỹ Yên sẽ xây dựng được thương hiệu chè và phát huy được tiềm năng thế mạnh của địa phương.
Có thể bạn quan tâm
Các nghiên cứu khoa học cho thấy, để có 100kg chè nguyên liệu loại tốt cây lấy đi từ đất khoảng 7,2kg N, 3kg P2O5, 3,1kg K2O, 2kg CaO, 1,2kg MgO, 2kg SiO2
Đó là kết quả của mô hình khảo nghiệm bón phân NPK-S 16.8.8-9 hàm lượng dinh dưỡng cao Lâm Thao trên cây chè kinh doanh tại xã Vân Lĩnh
Lá chè bị rầy chích hút sẽ chuyển sang màu vàng, xoăn lại, tiết ra hoạt chất giúp trà có mùi hương lạ như trái cây chín.