Cá Basa Việt Nam Vượt Vũ Môn
Từ năm 2000 - 2009, riêng kim ngạch xuất khẩu cá tra, basa đã tăng 930 lần về sản lượng và 560 lần về kim ngạch.
Trong khoảng thời gian chưa tới 10 năm, từ vài chục triệu USD, cá basa đã đem lại kim ngạch xuất khẩu trên 1,4 tỷ USD/năm với sản lượng 1,2 triệu tấn. Cá basa Việt Nam đã có mặt ở hơn 120 nước và dự báo sẽ càng tiến xa hơn nữa.
Ngược dòng Mekong tìm nơi cá đẻ
Cá tra, cá basa đã có ở Việt Nam từ trước năm 1975. Nhưng những năm 1980 - 1985 mới bắt đầu được thế giới biết đến khi có một công ty Úc qua Việt Nam tìm mua cá biển, cá thịt trắng và được giới thiệu cá basa.
Anh Ngô Phước Hậu - Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần thủy sản Agifish (An Giang), nhớ lại: "Lúc đó họ rất ưng ý cá basa, đã đặt hàng chúng tôi xuất khẩu. Sau đó một số nước ở châu Á, châu Âu biết tiếng cũng tìm qua mua với số lượng ngày càng lớn. Tình thế lúc ấy đặt ra cho chúng tôi nếu muốn tiếp tục phát triển con cá này ngày một lớn mạnh thì phải ương được giống nhân tạo. Nhưng lúc ấy ở Việt Nam rất khó tìm ra được con cá có trứng".
"Đó là vào đầu năm 1995. Đoàn gồm có ba thành phần: doanh nghiệp với đại diện là tôi, địa phương với đại diện là anh Bảy Nhị (ông Nguyễn Minh Nhị, nguyên Chủ tịch tỉnh An Giang - PV) cùng 2 nhà khoa học của Viện Cirad - Pháp và ĐH Cần Thơ. Cá ngược dòng sông Mekong, vượt hơn cả ngàn cây số lên đến tận thác Khổng của Lào để đẻ trứng" - anh Hậu kể lại.
Cá lội dưới nước, người đi theo trên bờ. Lúc đến Lào, ra chợ thấy người ta bày bán quá trời cá basa, cả đoàn mừng rỡ vì biết là đã sắp đến "ổ" của chúng. Sau khi đã tìm hiểu kỹ về điều kiện, môi trường sinh sản, đoàn nghiên cứu trở về Việt Nam. Mấy tháng sau đó, tin vui đã đến với bà con chài lưới ĐBSCL: Cá ở ao nghiên cứu ĐH Cần Thơ sau khi đẻ trứng đã nở thành cá!
...Đến vai trò thay thế của cá tra
Khi thị trường nước ngoài bắt đầu chuộng và yêu cầu cung cấp ngày một nhiều hơn thì con cá basa ngày càng thể hiện sự đuối sức. Các nhà nhập khẩu nước ngoài yêu cầu các doanh nghiệp Việt Nam tìm con cá khác thay thế. Họ cử các đoàn chuyên gia, nhà khoa học sang cùng phía Việt Nam nghiên cứu. Sau đó tất cả đã thống nhất chọn con cá tra thay thế vì nó có đặc điểm sinh trưởng, thịt phi lê tương tự cá basa.
Cá tra cũng đã có tại Việt Nam từ rất sớm, khoảng thập niên 50 - 60 đã thấy có cá tra ở vùng Đồng Tháp, An Giang. Cá tra có nguồn gốc từ Biển Hồ Campuchia, cũng xuôi theo dòng Mekong xuống Việt Nam. Sau đó lội ngược dòng về Biển Hồ để đẻ trứng.
Thịt cá tra không ngon bằng cá basa nhưng trứng nhiều, nuôi dễ hơn cá basa. Thời gian nuôi cũng chỉ bằng phân nửa thời gian nuôi cá basa. Cá tra lại có thể nuôi trong ao, rộng rãi hơn nhiều so với nuôi trong nhà bè của các basa. Năng suất cũng cao hơn.
Chính những lợi thế kinh tế này đã khiến cá tra dễ nuôi đại trà hơn và cùng với cá basa, phát triển với tốc độ vũ bão trong những năm sau đó, trở thành sản vật thần kỳ của Việt Nam trong công cuộc chinh phục người tiêu dùng thế giới. Chính cá tra và cá basa (mà Bộ NN&PTNT vừa chính thức ghép chung, coi như một với tên gọi cá basa) đã làm thay đổi toàn bộ diện mạo đời sống, cơ sở hạ tầng, kinh tế của người dân ĐBSCL.
Có thể bạn quan tâm
Đó là định hướng quy hoạch phát triển thủy sản được triển khai trên địa bàn tỉnh Lào Cai giai đoạn 2015 - 2020.
Tiền Giang có lợi thế về điều kiện tự nhiên để phát triển nghề nuôi thủy - hải sản. Nhìn nhận thực tế từ những năm qua cho thấy, nghề nuôi trồng thủy sản đã có những giai đoạn phát triển rất "nóng", tập trung vào nuôi tôm công nghiệp, cá tra, cá bè hay nhuyễn thể.
Tính đến ngày 27-6-2015, các doanh nghiệp trong cả nước đã ký được hợp đồng xuất khẩu 475.294 tấn cá tra các loại, trong đó Trung Quốc và Hồng Kông chính thức vượt Mỹ để trở thành thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam, tính đến thời điểm này, theo báo cáo của Hiệp hội cá tra Việt Nam (VN Pangasius).
Hội nhập nền kinh tế thế giới vừa là cơ hội, nhưng cũng đầy thách thức với ngành chăn nuôi của mỗi quốc gia khi hàng rào thuế quan xóa bỏ, thuế xuất nhập khẩu các loại sản phẩm sẽ trở về “con số 0”.
Cam Tuyền là xã thuộc vùng gò đồi của huyện Cam Lộ (Quảng Trị), có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, kinh tế chưa phát triển nên đời sống của người dân còn nhiều khó khăn. Trước đây, hầu hết người dân trong xã đều chăn nuôi bò theo lối chăn thả tự nhiên, tổng đàn bò khá lớn nhưng hiệu quả thu được không cao do lượng thức ăn tự nhiên không đáp ứng đủ nhu cầu (đàn bò mới được đáp ứng từ khoảng 50% đến 70% nhu cầu dinh dưỡng cần có); khả năng phát triển đồng cỏ hạn chế do không có đất dành riêng cho mục đích chăn nuôi.