Bí Quyết Chữa Bệnh Tai Xanh Ở Lợn

Hội chứng rối loạn hô hấp, sinh sản ở lợn còn có tên gọi bệnh tai xanh là bệnh truyền nhiễm cấp tính nguy hiểm, lây lan nhanh, thành dịch làm ốm và chết nhiều lợn.
Bệnh có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi của lợn nhưng tập trung chủ yếu ở lợn nái mang thai và lợn con theo mẹ. Lợn khi mắc phải bệnh nêu trên thường bị suy giảm miễn dịch.
Cũng từ nguyên nhân này khiến lợn có thể mắc phải những chứng bệnh khác kế phát như: Dịch tả lợn, phó thương hàn, tụ huyết trùng, E.coli, Streptococuss suis,… đây là những tác nhân kế phát gây chết nhiều lợn bệnh.
Về tác nhân gây bệnh, virus gây bệnh thuộc giống Arterivirus, họ Arteriviridae, bộ Nidovirals, có cấu trúc vỏ bọ dạng chuỗi đơn RNA.
Hiện nay, dựa theo phân tích cấu trúc gen, người ta xác định được 2 tuýp virus: Tuýp I gồm các virus thuộc dòng châu Âu, có tên gọi là virus Lelystad; loại II là loại virus gây bệnh trầm trọng hơn ở các nước châu Á gồm các virus thuộc đông bắc Mỹ với tên gọi là VR-2332. Sự khác nhau về cấu trúc gen của 2 tuýp virus nêu trên là khoảng 40%, ảnh hưởng đến đáp ứng miễn dịch bảo hộ chéo giữa hai tuýp.
Virus gây bệnh tai xanh tồn tại dưới hai dạng như sau: Dạng thứ nhất là dạng cổ điển có độc lực thấp, dạng biến thể có độc lực cao gây nhiễm và chết nhiều ở lợn. Virus gây bệnh được đánh giá tương đối mẫn cảm và dễ dàng bị tiêu hủy bởi các yếu tố vật lý và hóa học. Khi có sự tác động bởi các loại hóa chất thông thường như chlorine, iodine, formone và vôi bột virus cũng bị vô hoạt nhanh chóng.
Virus gây bệnh tai xanh có trong dịch mũi, nước bọt, phân và nước tiểu của lợn mắc bệnh hoặc mang trùng và phát tán ra môi trường. Đối với lợn mang trùng và không có triệu chứng lâm sàng, vẫn có thể phát hiện virus ở nước tiểu sau 14 ngày, ở phân từ 28-35 ngày, ở huyết thanh khoảng 21-23 ngày, ở dịch hầu họng khoảng 56-175 ngày, ở tinh dịch sau 92 ngày và đặc biệt là ở huyết thanh của lợn bị nhiễm bệnh sau 210 ngày vẫn có thể tìm thấy virus. Ở lợn bệnh hoặc lợn mang trùng, virus tập trung chủ yếu ở phổi, hạch amidan, lách, tuyến ức, huyết thanh, hạch lympho.
Khi lợn khỏe tiếp xúc với lợn ốm, lượn mang trùng, các nguồn có chứa virus như phân, nước tiểu, bụi, nước bọt, thụ tinh nhân tạo và thậm chí là từ một số loài chim hoang. Bên cạnh nguồn lây trực tiếp lây trên, nguồn lây có thể qua dụng cụ chăn nuôi, phương tiện vận chuyển, dụng cụ bảo hộ lao động nhiễm trùng, nguồn nước bị ô nhiễm.
Hình thức phát tán qua không khí từ phân, chất thải có chứa virus hình thành các loại hạt bụi chứa virus có thể theo gió đi xa tới 3km, được xem là mối nguy hiểm ở trong vùng có dịch.
Có thể bạn quan tâm

Tổng sản lượng tôm 10 tháng đầu năm ước đạt 6.000 tấn (bao gồm tôm thẻ chân trắng và tôm sú), bằng 92% so với năm 2013. Theo ông Tạ Quang Sáng, Trưởng phòng Quản lý giống và nuôi trồng thủy sản của chi cục thì nguyên nhân dẫn đến giảm sút nói trên là do thời tiết thay đổi thất thường, bệnh trên tôm xảy ra sớm và vẫn gây thiệt hại ở mức độ nhất định.

Đây là hội thảo đầu tiên trong khuôn khổ MDEC Sóc Trăng 2014, thu hút 700 đại biểu là các nhà khoa học, nhà quản lý từ các bộ, ngành Trung ương và địa phương tham dự.

Vụ nuôi tôm xuân – hè năm nay, xã Hoằng Châu (Hoằng Hóa - Thanh Hóa) có kế hoạch đưa vào thả nuôi khoảng 25 triệu con tôm sú trên diện tích 389 ha. Hiện nay, các chủ đồng đã đồng loạt thả tôm xuống đồng nuôi, theo kế hoạch, đến cuối tháng 4-2014, toàn xã sẽ hoàn thành việc thả tôm giống.

Nhiều nông dân ở huyện Phú Giáo (Bình Dương) đã đầu tư hàng chục, thậm chí cả trăm triệu đồng để xây dựng chuồng trại nuôi lươn không bùn. Tuy nhiên, sau đợt nuôi đầu tiên chừng vài tháng, không ít người lao đao vì lỗ nặng, nợ tiền vay ngân hàng. Nhiều người bức xúc cho rằng: Mình đã bị lừa!

Tôm hùm, một loại hải đặc sản có giá trị kinh tế cao, đang được chú trọng trong nuôi trồng thủy sản, tập trung chủ yếu ở các tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, sản lượng hằng năm đạt 1.385 tấn, đem lại nguồn thu hàng nghìn tỷ đồng mỗi năm cho người nuôi. Tuy nhiên, thời gian qua, nghề nuôi tôm hùm vẫn bộc lộ nhiều hạn chế: rủi ro cao, thiếu tính bền vững.