Bệnh Viêm Gan Vịt
NGUYÊN NHÂN
Bệnh viêm gan trên vịt do virus (Duck Heapatitis Virus - DHV) là một bệnh truyền nhiễm cấp tính xảy ra ở vịt con, đặc biệt vịt con dưới 3 tuần tuổi, với đặc điểm chính là gan sưng và xuất huyết, tỷ lệ chết cao và truyền lây rất nhanh. Bệnh do 3 tuyp virus gây ra nhưng chủ yếu là tuyp I và tuyp II. Bệnh viêm gan vịt được Levine và Hofstad phát hiện đầu tiên vào năm 1945 tại Mỹ, sau đó bệnh xuất hiện ở hầu hết các nước thuộc các châu Âu và châu Á.
Tại Việt Nam, từ năm 1978, Trần Minh Châu và cộng sự đã nghi có bệnh viêm gan do virus của vịt. Kể từ đó đến nay, bệnh vẫn tiếp tục lưu hành ở nước ta nhưng ít được quan tâm. Hiện nay, bệnh đang gây thiệt hại nặng nề tại các tỉnh phát triển chăn nuôi vịt ở đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long.
TRIỆU CHỨNG BỆNH TÍCH
Bệnh xảy ra đột ngột, thời gian nung bệnh ngắn chỉ trong vòng 24 giờ, bệnh lây lan nhanh, vịt chết tập trung vào ngày thứ 2-4 sau khi mắc bệnh, tỷ lệ chết rất cao có khi lên tới 100% ở vịt con.
Đặc trưng của bệnh là vịt bị yếu dần và rối loạn vận động. Vịt bệnh mất thăng bằng, nằm nghiêng về một phía của cơ thể và chân đạp trước khi chết. Khi chết, vịt nằm ở tư thế đầu quay ngược về phía sau. Diễn biến của bệnh xảy ra nhanh khoảng 1 đến 2 giờ.
Bệnh tích đại thể chủ yếu biểu hiện ở gan bị sưng, nhiều xuất huyết điểm và vệt. Lách sưng to và thận sưng lồi, tụ huyết tại các mạch máu của thận.
Có thể chẩn đoán phân biệt giữa bệnh viêm gan vịt và dịch tả vịt, tụ huyết trùng và cúm gia cầm.
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
+ Khi dịch bệnh chưa xảy ra:
Biện pháp quản lý, đặc biệt là biện pháp an toàn sinh học đóng vai trò quan trọng: kiểm soát nhập đàn, hạn chế nguy cơ mang mầm bệnh từ bên ngoài vào trại thông qua các phương tiện trung gian và thực hiện tốt vệ sinh và sát trùng chuồng trại.
Ngoài ra, tiêm phòng vacxin như là một biện pháp hỗ trợ nhưng là biện pháp chủ động và hiệu quả nhất. Có 2 loại vacxin viêm gan vịt: Vacxin sống sử dụng cho vịt con và vacxin chết dùng cho vịt đẻ để truyền kháng thể thụ động giúp vịt con bảo hộ 2-3 tuần đầu tiên sau khi ấp nở.
+ Khi dịch bệnh xảy ra:
Thực hiện cách ly, tiêu độc và sát trùng chuồng trại (BENCOCID, NAVETKON-S, NAVET-IODINE), dùng các chế phẩm vitamin C (NAVET-VITAMIN C ANTISTRESS) nhằm tăng cường sức đề kháng, cung cấp các chất cung năng lượng giải độc (GLUCOSE) và các chất điện giải (VITA-ELECTROLYTES).
Vì bệnh diễn tiến rất nhanh nên khi phát hiện bệnh sớm, để điều trị hiệu quả bệnh viêm gan vịt có thể sử dụng các chế phẩm kháng huyết thanh hoặc kháng thể lòng đỏ có chất lượng cao, đặc hiệu kháng với các loại virus đang gây bệnh tại Việt Nam.
Có thể bạn quan tâm
Cá hô (Catlocarpio siamensis) là loài cá có kích thước lớn nhất trong họ Cá chép (Cyprinidae). Cá hô thường sinh sống ở những hố lớn cạnh bờ những dòng sông lớn, nhưng chúng cũng có thể bơi vào những kênh, rạch, sông nhỏ để kiếm thức ăn trong một số thời điểm. Loài cá này đang bên bờ tuyệt chủng vì bị đánh bắt.
Sau đó cho vịt ăn giảm để cầm xác khoảng 1-2 tháng khi nào muốn cho vịt đẻ lại (lúc giá trứng cao hoặc giá thức ăn thấp, hoặc có đồng chăn thả) thì bổ sung khẩu phần tốt, vịt sẽ đẻ lại cùng lúc, tỷ lệ đẻ nâng dần lên. Điều này giúp lượng trứng sản xuất tập trung, thuận tiện cho việc chăm sóc bổ sung chất khi vịt đẻ trở lại, tiết kiệm chi phí trong giai đoạn vịt thay lông.
Nhiều con trong đàn đi lại không được, thể thần kinh ngoẹo đầu, bại liệt cả 2 chân và sệ cánh do vi khuẩn tập trung trong các khớp, bao hoạt dịch, trong tai hoặc đỉnh sọ nên vịt bị viêm các khớp đùi, đầu gối, cánh, viêm màng não...
Giảm được chi phí để nuôi con đực, nếu tự giao phối thì 1 con đực chỉ ghép được 4 – 5 con cái, nhưng thụ tinh nhân tạo 1 con đực thụ tinh được bình quân 20 – 25 con mái, có thời điểm thụ tinh được 40 – 50 con cái và như vậy giảm được chi phí khoảng 5 – 7%
Đây là phương thức nuôi tiên tiến, có thể nuôi vịt quanh năm, sản phẩm sản xuất ra có chất lượng cao, thuận tiện cho việc bố trí sản xuất quy mô lớn. Muốn đạt năng suất cao phải chú ý từng khâu kỹ thuật. Theo phương thức này vịt được nuôi 7-8 tuần là giết thịt.