Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Bến Tre Điều Chỉnh Qui Hoạch Nuôi Tôm Chân Trắng

Bến Tre Điều Chỉnh Qui Hoạch Nuôi Tôm Chân Trắng
Ngày đăng: 07/07/2014

Nuôi tôm chân trắng (TCT) ngoài vùng qui hoạch đang là bức xúc không chỉ của ngành nông nghiệp, chính quyền địa phương mà cả người nuôi.

Tình trạng nuôi TCT tràn lan, trong vùng ngọt hóa ngày càng gia tăng, chưa có giải pháp ngăn chặn kịp thời. Để giải quyết bài toán khó này, UBND tỉnh Bến Tre vừa phê duyệt Điều chỉnh Quy hoạch chi tiết nuôi TCT trên địa bàn tỉnh đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.

Quy hoạch xác định đối tượng TCT là một trong những mặt hàng chiến lược của tỉnh và là sản phẩm xuất khẩu thủy sản của quốc gia cũng như cung cấp nhu cầu thủy sản trong nước. Vì vậy, cần phát triển nuôi tôm theo hướng bền vững về môi trường, hiệu quả về mặt kinh tế, ổn định về xã hội; kết hợp hài hòa giữa nuôi TCT với các mô hình sản xuất nông nghiệp khác; hình thức nuôi thâm canh, năng suất cao và được sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan, ban ngành hữu quan.

Quy hoạch đề ra các chỉ tiêu cụ thể như, đối với diện tích nuôi tôm sú thâm canh, bán thâm canh sẽ chuyển 428ha sang nuôi TCT và sẽ còn lại 4.072ha. Diện tích nuôi tôm sú quảng canh cải tiến chuyển 202ha sang nuôi TCT, còn lại 13.149ha. Diện tích nuôi tôm sú - lúa chuyển 1.280ha sang nuôi TCT, còn lại 7.620ha. Bổ sung phần đất ngoài đê một số xã thuộc địa bàn 5 huyện Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú, Giồng Trôm, Mỏ Cày Nam.

Quy hoạch đối tượng TCT dựa trên lợi thế giữa các đối tượng nuôi và các ngành kinh tế khác; tránh xung đột với các đối tượng khác trong vùng quy hoạch; áÙp dụng những thành tựu về khoa học công nghệ, những kỹ thuật tiên tiến trong quy trình nuôi tôm thâm canh; khoanh vùng nuôi tập trung hợp lý, kiểm soát được dịch bệnh, môi trường; tạo công ăn việc làm, thu nhập ổn định cho một lượng lớn lao động tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp trong việc nuôi đối tượng này.

Dự kiến đến năm 2015, diện tích nuôi TCT toàn tỉnh đạt 4.390ha, đến năm 2020 đạt 7.820ha và định hướng đến 2030 đạt 8.300ha (Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 14,1%/năm giai đoạn 2014-2015, đạt 12,2%/năm giai đoạn 2016-2020 và định hướng cho giai đoạn 2021-2030 đạt 0,6%/năm).

Sản lượng đến năm 2015 đạt 41.340 tấn, đến năm 2020 đạt 75.750 tấn và định hướng đến năm 2030 đạt 80.520 tấn (Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 24,1%/năm giai đoạn 2014-2015, đạt 12,9%/năm giai đoạn 2016-2020 và định hướng cho giai đoạn 2021-2030 đạt 0,6%/năm). Giá trị sản xuất đến 2015 đạt 2.440 tỷ đồng, đến năm 2020 đạt 4.460 tỷ đồng và định hướng đến 2030 đạt 4.750 tỷ đồng (Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 22,5%/năm giai đoạn 2014-2015, đạt 12,8%/năm giai đoạn 2016-2020 và định hướng cho giai đoạn 2021-2030 là 0,6%/năm).

Giá trị xuất khẩu đến năm 2015 đạt 210 triệu USD, đến năm 2020 đạt 410 triệu USD và định hướng đến năm 2030 đạt 440 triệu USD (Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 14,3%/năm giai đoạn 2016-2020 và định hướng cho giai đoạn 2021-2030 đạt 0,7%/năm). Lao động đến 2015 tạo việc làm cho 8.780 người, đến 2020 tạo việc làm cho 15.640 người và định hướng đến 2030 tạo việc làm cho 16.600 người.

Quy hoạch phân bố diện tích nuôi TCT trên địa bàn các huyện như sau: Bình Đại năm 2015 là 1.220ha, năm 2020 là 1.790ha, năm 2030 là 1.790ha; Ba Tri năm 2015 là 1.470ha, năm 2020 là 2.220ha, năm 2030 là 2.220ha; Thạnh Phú năm 2015 là 1.500 ha, năm 2020 là 2.900 ha, năm 2030 là 3.260ha; Giồng Trôm năm 2015 là 110ha, năm 2020 là 550ha, năm 2030 là 550 ha; Mỏ Cày Nam năm 2015 là 90ha, năm 2020 là 360ha, năm 2030 là 480ha.

Quy hoạch cũng đề xuất 7 dự án hạ tầng về thủy lợi, giao thông; 8 dự án đầu tư hệ thống lưới điện; 6 dự án nghiên cứu khoa học phát triển sản xuất; 2 dự án xây dựng nhà máy chế biến thủy sản. Tổng vốn đầu tư phát triển nuôi TCT đến 2020 là 1.359 tỷ đồng, trong đó vốn đầu tư các dự án, đề tài nghiên cứu khoa học phát triển sản xuất đến 2020 là 738 tỷ đồng.

Quy hoạch đề xuất 10 giải pháp thực hiện, bao gồm các giải pháp như về cơ chế, chính sách; bảo vệ tài nguyên, môi trường; khoa học công nghệ; phát triển nguồn nhân lực; vốn đầu tư; chế biến tiêu thụ sản phẩm, mở rộng thị trường và xúc tiến thương mại; tổ chức sản xuất; hậu cần dịch vụ cho hoạt động nuôi và sản xuất giống; cơ sở hạ tầng; tổ chức thực hiện và quản lý quy hoạch.


Có thể bạn quan tâm

Ninh Sơn Nhân Rộng Những Mô Hình Sản Xuất Nông Nghiệp Hiệu Quả Ninh Sơn Nhân Rộng Những Mô Hình Sản Xuất Nông Nghiệp Hiệu Quả

Những mô hình phát triển kinh tế mới trên địa bàn huyện Ninh Sơn thời gian qua đã đem lại hiệu quả tích cực và đang từng bước phát huy được tiềm năng, thế mạnh của địa phương.

18/06/2014
Có 204 Doanh Nghiệp Thủy Sản Được Xuất Sang Argentina Có 204 Doanh Nghiệp Thủy Sản Được Xuất Sang Argentina

Cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản (NAFIQAD), Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Cơ quan Chất lượng và Vệ sinh nông sản quốc gia Argentina (SENASA) đã hoàn tất việc ký Bản ghi nhớ giữa hai cơ quan về việc xuất khẩu nông, thủy sản sang nước đối tác.

11/07/2014
Dịch Rệp Sáp Bột Hồng “Ăn Mòn” Cây Sắn Vùng Cùa Dịch Rệp Sáp Bột Hồng “Ăn Mòn” Cây Sắn Vùng Cùa

Thời gian qua, do khí hậu khắc nghiệt, hạn hán kéo dài, lượng mưa thấp... là điều kiện thuận lợi cho rệp sáp bột hồng phát triển mạnh và lây lan trên diện rộng ở nhiều thôn vùng Cùa thuộc xã Cam Chính, huyện Cam Lộ (Quảng Trị).

11/07/2014
Phước Hậu Đi Đầu Trong Đổi Mới Sản Xuất Nông Nghiệp Phước Hậu Đi Đầu Trong Đổi Mới Sản Xuất Nông Nghiệp

Dù không phải là điểm xây dựng nông thôn mới của tỉnh, nhưng trong những năm qua với những chuyển biến tích cực về kinh tế - xã hội, Phước Hậu (Ninh Phước) luôn cho bài học kinh nghiệm quý về sự đổi mới của nông nghiệp, nông dân và nông thôn.

18/06/2014
Vườn Treo Giữa Phố Vườn Treo Giữa Phố

Vườn lạ, đẹp, dâu sạch, ngon ngọt, chủ nhân nhiệt tình với khách, đó là ấn tượng của du khách với khu vườn dâu treo của anh Huỳnh Ngọc Tạo, đường ¾, Đà Lạt. Giữa những vườn dâu trồng trên giá gỗ bình thường khác, khu vườn treo xinh xắn này tạo được dấu ấn rất riêng.

11/07/2014