4 tháng đầu năm, số lô tôm bị cảnh báo tăng cao

Tại hội nghị: “Tác động của các FTAs đối với thương mại xuất nhập khẩu tôm của Việt Nam” được tổ chức tại Cần Thơ ngày (6-5), ông Nguyễn Khánh Vinh, Phó giám đốc Nafiqad vùng 5, cho biết ba thị trường nhập khẩu chính tôm của Việt Nam là Mỹ, Nhật Bản, EU đã cảnh báo và trả về 36 lô hàng chỉ trong bốn tháng đầu năm nay, bằng gần 40% so với con số 92 lô của cả năm 2014.
Cụ thể, bốn tháng qua, doanh nghiệp trong nước bị thị trường EU trả về 4 lô; Nhật Bản trả về 7 lô. Riêng đối với thị trường Mỹ trả về đến 25 lô, bằng hơn 50% số lô bị trả về trong cả năm 2014.
Lý giải nguyên nhân số lô tôm bị cảnh báo, trả về nhiều, theo ông Vinh, do việc kiểm soát lưu thông thuốc thú y; chất xử lý, cải tạo môi trường trong nuôi trồng chưa được thực hiện liên tục, chặt chẽ nên dẫn đến xảy ra tình trạng mua bán, sử dụng chất cấm.
Ngoài ra, cũng theo ông Vinh, gần đây vẫn còn một số trường hợp người nuôi sử dụng thuốc thú y không tuân thủ nguyên tắc bốn đúng (đúng thuốc, đúng liều, đúng lúc và đúng thời gian cách ly), cho nên tôm sau khi thu hoạch vẫn còn tồn dư thuốc thú y vượt mức cho phép.
Trong khi đó, tại hội nghị này, vị đại diện của một doanh nghiệp, cho rằng việc cập nhật, bổ sung các tiêu chuẩn quy định mới ở các nước nhập khẩu của một số cơ quan quản lý trong nước vẫn chưa kịp thời, dẫn đến sản phẩm của doanh nghiệp bị trả về khi hàng đã được đưa đến nước nhập khẩu. “Tôi đã từng gặp trường hợp, phía đối tác nhập khẩu thông báo nước họ sẽ cấm nhập khẩu, nếu sản phẩm bị “vướng” chất này, chất nọ. Thế nhưng, khi tôi hỏi lại các nhà quản lý trong nước, thì họ cho biết vẫn chưa nắm được thông tin đó”, vị này cho biết.
Trao đổi về vấn đề này, ông Vinh của Nafiqad vùng 5, cho rằng có thể do quyết định hay những thông tin như trên chưa đến được với cơ quan quản lý. “Đối với chúng tôi cũng cần phải năm, bảy ngày hoặc hai, ba ngày để nắm được những thông tin như vậy”, ông nói.
Tuy nhiên, việc cập nhật thông tin chậm trễ, nhất là thông tin về những quy định cấm của nước nhập khẩu sẽ gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp, có thể ảnh hưởng xấu đến tình hình xuất khẩu chung của cả nước.
Theo tìm hiểu của TBKTSG Online, Mỹ, EU và Nhật Bản là ba thị trường nhập khẩu tôm lớn nhất của Việt Nam trong ba tháng đầu năm 2015, chiếm 57,3% tỉ trọng xuất khẩu toàn ngành của cả nước, trong đó Mỹ chiếm 20,3%, EU chiếm 18,9% và Nhật Bản 18,1%.
Xét về kim ngạch, trong ba tháng đầu năm 2015, xuất khẩu sang Mỹ đạt trên 116,3 triệu đô la Mỹ, giảm 55,8% so với cùng kỳ; sang EU đạt trên 108,5 triệu đô la Mỹ, giảm 3,1% và sang Nhật Bản đạt trên 103,7 triệu đô la Mỹ, giảm 27,6% so với cùng kỳ năm ngoái.
Có thể bạn quan tâm

Từ thực trạng trên, Trung tâm Khuyến nông Khuyến ngư tỉnh Bình Thuận đã phối hợp với các hộ dân thị xã La Gi thực hiện mô hình nuôi tôm theo hướng VietGAP nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, giảm tỷ lệ tôm chết do dịch bệnh, đảm bảo các yêu cầu về an toàn thực phẩm, giải quyết các vấn đề xử lý ô nhiễm môi trường, bảo vệ môi trường sinh thái và dễ dàng trong việc truy xuất nguồn gốc sản phẩm.

Khó khăn lớn nhất để nhân rộng mô hình này là sản phẩm VietGAP vẫn được bán với mức giá “cào bằng” ngoài thị trường trong cảnh vàng thau lẫn lộn. Nhưng theo một số chủ trang trại chăn nuôi gà VietGAP, nếu tính toán tốt bài toán chi phí đầu vào thì người chăn nuôi vẫn đạt lợi nhuận khi bán sản phẩm sạch với giá rẻ.

Dự án được Trạm Khuyến nông huyện phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ triển khai từ tháng 5-2014 đến hết tháng 5-2015, tại các xã: Lương Phú, Kha Sơn, Tân Hòa và Bảo Lý với quy mô 1,5ha, bao gồm 11 hộ dân tham gia. Các hộ dân được hỗ trợ 60% giá giống, 30% giá thức ăn công nghiệp và tập huấn khoa học kỹ thuật về biện pháp thâm canh, vệ sinh phòng chống dịch bệnh cho cá.

“Năm 2012, tôi bắt đầu nuôi thỏ quy mô nhỏ ở gia đình. Vượt qua những khó khăn, bỡ ngỡ ban đầu, đến nay tôi nhận thấy đây là mô hình có nhiều ưu điểm như tận dụng được tối đa nguồn thức ăn sẵn có là các loại rau, cỏ dại tại địa phương, ít dịch bệnh, quay vòng vốn nhanh. Bên cạnh đó, chi phí đầu tư cho chăn nuôi thỏ không quá tốn kém.

Vào tháng 1-2014, Báo SGGP đã có bài “Đừng để nông dân chịu cay”, phản ánh việc bà con nông dân ở tỉnh Nghệ An trồng ớt từ nguồn cung cấp giống của một người Trung Quốc. Một số địa phương vẫn âm thầm gieo trồng bất chấp những cảnh báo về dịch bệnh, đầu ra cho sản phẩm… Đến nay, ớt đã vào kỳ thu hoạch, nhưng không như lời hứa sẽ thu mua sản phẩm, thương lái Trung Quốc một đi không trở lại.