Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Yên Bái Khắc Phục Tình Trạng Thiếu Bãi Chăn Thả Gia Súc

Yên Bái Khắc Phục Tình Trạng Thiếu Bãi Chăn Thả Gia Súc
Ngày đăng: 30/09/2014

Số lượng đàn gia súc của tỉnh Yên Bái liên tục giảm qua từng năm. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, một trong những nguyên nhân đó là do bãi chăn thả bị thu hẹp, nguồn thức ăn cho đàn gia súc hạn chế. Vì vậy, muốn tăng đàn, phát triển chăn nuôi, trước mắt cần khắc phục tình trạng thiếu bãi chăn thả.

Buổi chiều, khi cái nắng bớt gay gắt, đàn trâu của gia đình bà Nguyễn Thị Thoa, thôn 4, xã Minh Quán (Trấn Yên) lại thủng thẳng ra đồng. Bãi chăn thả quen thuộc của gia đình bà là chân đồi, bãi cỏ ven đường.

Với hơn 1 sào cỏ, không thể đủ cho đàn trâu 7 con nên trong những ngày mưa rét, gia đình bà lại tận dụng những sản phẩm phụ từ nông nghiệp từ rơm rạ, sắn… cho trâu ăn. Bà cho biết: "Gia đình nào có nhiều đất, đặc biệt là đất soi bãi trồng cỏ thì tốt nhưng không phải nhà nào cũng có. Phần lớn những hộ nông dân nuôi trâu, bò ở đây tận dụng diện tích bãi cỏ ven đồi, ven ruộng.

Nhà tôi cũng vậy, ngày nắng, thời tiết thuận lợi thì thả trâu lên đồi, ngày nào mưa rét mới cho trâu ở nhà ăn cỏ trồng và thức ăn dự trữ". Vấn đề thức ăn chăn nuôi đang được gia đình bà Thoa giải quyết giống như hàng nghìn hộ chăn nuôi khác.

Hiện nay, Yên Bái có đàn trâu 96.246 con, đàn bò 18.324 con, chưa kể đến số lượng dê và ngựa. Trung bình, mỗi con trâu, bò trưởng thành cần từ 8 - 10 kg cỏ mỗi ngày. Tuy nhiên, hiện nay, hầu hết các hộ chăn nuôi đều trông chờ vào lượng cỏ tự nhiên.

Tại những địa phương vùng cao như huyện Trạm Tấu, Mù Cang Chải, Lục Yên, đồng bào vẫn duy trì tập quán thả rông gia súc trên rừng để tận dụng thức ăn dưới tán rừng hoặc tại những huyện vùng thấp như Yên Bình, nhiều hộ nông dân tận dụng bãi chăn thả trên các đảo hồ Thác Bà.

Với 1.700 ha bãi chăn thả tự nhiên, cỏ được khai thác từ mùa này sang mùa khác, năm này sang năm khác dẫn đến nguồn cỏ tự nhiên kiệt quệ, năng suất ngày một thấp, chất lượng ngày một kém và rồi những đồng cỏ tự nhiên này cũng bị thu hẹp dần do quá trình đô thị hóa và giao đất, khoanh nuôi, bảo vệ rừng.

Ngoài diện tích bãi chăn thả tự nhiên, toàn tỉnh đang có khoảng 1.700 ha đất trồng cỏ với các giống cỏ voi, cỏ Ghi - nê, trong đó, có tới 88% là đất tận dụng diện tích bờ bãi và các bãi đất trống trong năm, do đó năng suất và chất lượng không ổn định.

Thiếu đất trồng cỏ là điều khó tránh khỏi vì mỗi hộ nông dân chỉ có vài sào ruộng, trồng lúa, trồng ngô còn không đủ nên hiếm hộ nào đầu tư đất chuyên trồng cỏ. Do đó, tất cả đều trông đợi vào tự nhiên. Sản lượng khai thác từ đồng cỏ và cỏ trồng chỉ đạt 600.000 tấn mỗi năm.

Với quy mô đàn gia súc gồm: trâu, bò, dê hiện nay, sản lượng trên mới đáp ứng được gần 30% lượng thức ăn, như vậy còn thiếu đến 70% lượng thức ăn thô xanh cho gia súc. Khắc phục vấn đề này, các chương trình, dự án hỗ trợ trâu, bò đều đưa ra yêu cầu người dân trồng cỏ với diện tích 1 sào cỏ hoặc 1 cây rơm cho mỗi con gia súc.

Từ năm 2010 đến nay, để bảo đảm thức ăn cho gia súc, tỉnh đã có chính sách hỗ trợ làm trên 1.000 cây rơm cho các huyện Trạm Tấu, Mù Cang Chải và một số địa phương gặp khó khăn về diện tích chăn thả. Ngoài ra, các địa phương, ngành chuyên môn luôn vận động nhân dân tận dụng các phụ phẩm nông nghiệp và làm vụ đông lấy thức ăn cho gia súc.

Khác với chăn nuôi lợn và gia cầm, chăn nuôi gia súc cần có cỏ và thức ăn thô xanh. Một trong những mục tiêu đề ra của ngành chăn nuôi là phát triển đàn gia súc chính.

Vì vậy, các địa phương, đặc biệt những nơi có đàn gia súc lớn cần quy hoạch đồng cỏ và trồng cỏ; bố trí quỹ đất hợp lý để phát triển trồng cỏ; vận động nhân dân phát triển trồng cỏ để chăn nuôi đại gia súc; đưa vào trồng đại trà các giống cỏ năng suất cao, thích hợp với điều kiện tự nhiên như cỏ VA06, Guatemala… Tùy vào tình hình thực tế tại địa phương, cần có cơ chế khuyến khích phù hợp.

Đơn cử như huyện Yên Bình, nhiều hộ nông dân đang tận dụng bãi chăn thả trên các đảo hồ nuôi gia súc với số lượng lớn nhưng mùa đông lại phải cho trâu, bò vào bờ tránh rét, vì vậy cần có cơ chế hỗ trợ làm chuồng trại chăn thả quanh năm.

Ngoài việc trồng cỏ và khai thác bãi chăn thả tự nhiên, nông dân cần tận dụng các sản phẩm phụ từ nông nghiệp, trồng cây vụ đông, làm cây rơm để bảo đảm thức ăn cho gia súc trong những ngày mưa rét kéo dài.


Có thể bạn quan tâm

Nữ tướng trồng rừng vượt nghịch cảnh thành tỷ phú Nữ tướng trồng rừng vượt nghịch cảnh thành tỷ phú

Bằng nghị lực vượt khó và sự sáng tạo trong làm ăn, từ người trồng rừng thuê, chị Nguyễn Thị Ba (sinh năm 1971, ngụ thôn Dương Lộc, xã Lộc Bổn, huyện Phú Lộc, Thừa Thiên - Huế) đã vươn lên thành tỷ phú.

21/09/2016
Nông dân làm giàu từ nuôi con đặc sản Nông dân làm giàu từ nuôi con đặc sản

Đến thôn 323, xã Đỉnh Sơn, huyện Anh Sơn hỏi ông Nguyễn Duy Trình nuôi “con đặc sản” ai cũng biết, bởi lẽ ông là người mạnh dạn tiên phong nuôi hươu sao, lợn rừng, nhím... Từ mô hình này mang lại cho ông khoản lãi từ 120 - 150 triệu đồng mỗi năm.

21/09/2016
Quảng Nam Hiệu quả cao từ mô hình nuôi cua thương phẩm ở vùng triều Quảng Nam Hiệu quả cao từ mô hình nuôi cua thương phẩm ở vùng triều

Nuôi cua thương phẩm trên địa bàn TP.Hội An đã đem lại thu nhập cao cho nhiều hộ nông dân, mở ra triển vọng mới cho nghề nuôi thủy sản ở vùng triều ven sông.

21/09/2016
Điện Biên Hiệu quả mô hình cá rô đầu vuông Điện Biên Hiệu quả mô hình cá rô đầu vuông

Thực hiện chương trình hỗ trợ nông nghiệp năm 2016, Trung tâm Thủy sản tỉnh Điện Biên xây dựng và triển khai mô hình nuôi thương phẩm cá rô đầu vuông trong ao cho các hộ nông dân địa bàn các xã: Thanh Nưa, Thanh Hưng, Thanh Chăn, Thanh Xương (huyện Điện Biên). Qua một thời gian thí điểm, mô hình đã thu được những kết quả khả quan, mở ra hướng phát triển kinh tế mới cho nông dân

21/09/2016
Hiệu quả mô hình “nuôi bò rẻ” ở Phước Hòa Hiệu quả mô hình “nuôi bò rẻ” ở Phước Hòa

Ông Katơr Thơm, Chủ tịch Hội CCB xã Phước Hòa, cho biết: Hiện nay, toàn Hội có 75 hội viên. Để tạo nguồn vốn cho hội viên phát triển kinh tế gia đình, Hội CCB xã đã vận động các hội viên kinh tế khá giả, có đàn bò nhiều giúp đỡ cho từng hội viên nghèo và cận nghèo thông qua mô hình “Nuôi bò rẻ”. Hội viên có bò cho hội viên kinh tế gia đình còn khó khăn nhận nuôi từ 1-2 con bò cái, sau thời gian bò đẻ, con lứa đầu sẽ được cho gia đình nuôi hưởng, con lứa thứ hai trả cho chủ hộ. Cứ như thế xoay vòng từ 2-4 năm. Với cách làm này, từ năm 2009 đến nay, 8 hội viên có bò đã cho 18 hội viên và bà con nghèo nhận 37 bò cái sinh sản về nuôi rẻ.

22/09/2016
Sản phẩm khuyên dùng
Chất lượng vượt trội, bọt khí mịn, kháng khuẩn. Ống Nano-Tube là lựa chọn sục khí được ưa chuộng nhất trên thị trường để tăng cường oxy đáy trong ao nuôi tôm …
Sản phẩm khuyên dùng
Chất lượng hoàn toàn vượt trội, sử dụng hộp số giảm tốc vỏ gang, một trải nghiệm vô cùng mới. Oxy hoà tan cao, tạo dòng lưu thông mạnh giữ cho đáy ao luôn sạch.