Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Xuất Khẩu Gạo Tiếp Tục Gặp Khó

Xuất Khẩu Gạo Tiếp Tục Gặp Khó
Ngày đăng: 27/01/2015

Xuất khẩu gạo chính thức của Việt Nam trong năm qua chỉ đạt 6,316 triệu tấn

Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), xuất khẩu (XK) gạo năm 2014 đạt 6,316 triệu tấn, trị giá FOB 2,789 tỉ USD, trị giá CIF 2,931 tỉ USD, giá XK bình quân 441,62 USD/tấn. Theo đó, số lượng giảm 5,47%, trị giá FOB giảm 3,59%, trị giá CIF giảm 2,91%, giá bình quân tăng 8,55 USD/tấn so với năm 2013.
Trong đó gạo cao cấp XK là 1,331 triệu tấn chiếm 21,08%, gạo cấp trung bình là 2,013 triệu tấn chiếm 31,87%, gạo cấp thấp là 732.000 tấn chiếm 11,58%, gạo thơm các loại là 1,302 triệu tấn chiếm 20,62%, nếp là 637.000 tấn chiếm 10,09%. Theo đó, hợp đồng tập trung 2 triệu tấn (chiếm 31,67%), hợp đồng thương mại 4,316 triệu tấn (chiếm 68,33%).
Châu Á chiếm áp đảo
Thị trường gạo XK gạo khu vực châu Á là 4,784 triệu tấn (chiếm 75,75%), châu Phi 800.000 tấn (chiếm 12,68%), châu Mỹ 479.000 tấn (chiếm 7,58%), châu Âu 95.000 tấn (chiếm 1,50%), Trung Đông là 80.000 tấn (chiếm 1,27%), châu Úc 76.000 tấn (chiếm 1,21%). Các thị trường nhập khẩu số lượng lớn là Trung Quốc, Philippines, châu Phi, Malaysia, Indonesia, Cuba và Hồng Kông.
So với năm 2013, số lượng XK giảm 5,47%, trị giá FOB giảm 3,59%. XK trong năm qua giảm do thị trường châu Phi giảm mạnh, thiếu sự cạnh tranh với Thái Lan và Ấn Độ.
Châu Á vẫn là khu vực thị trường lớn nhất, chiếm tỉ trọng đến 75,75%, tăng 19,05% so với năm trước, chủ yếu do XK vào Philippines tăng vượt cao đến 179,08%, và Indonesia cũng tăng mạnh đến 112,34%, trong khi Trung Quốc giảm nhẹ. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn là thị trường gạo lớn nhất của Việt Nam trong 3 năm qua và chiếm 33,63% trong năm 2014, chưa kể XK qua biên giới không đăng ký. Trong khi thị trường châu Phi giảm mạnh đến 57,22%.
Thị trường châu Mỹ tăng 4,57% do tăng từ các thị trường mới như Mỹ, Mexico, Haiti, Chile. Trong khu vực này, Mỹ là thị trường lớn nhất nhưng bị hàng rào an toàn vệ sinh thực phẩm và kiểm dịch thực phẩm. Thị trường châu Âu giảm đến 56,28%, do gạo Việt Nam vào thị trường này phải đóng thuế cao, không cạnh tranh được với các nước được hưởng thuế ưu đãi phổ cập (GSP) và các nước được cấp hạn ngạch nhập khẩu với mức thuế thấp hơn.
Theo số liệu thống kê của VFA, XK qua biên giới Trung Quốc có đăng ký hợp đồng khoảng 650.000 tấn nhưng trên thực tế số lượng gạo chuyển từ đồng bằng sông Cửu Long ra Bắc qua cảng Hải Phòng lớn hơn nhiều, khoảng 2 triệu tấn và chủ yếu là để XK qua biên giới.
Dự báo
Dự báo năm 2015, sản lượng lương thực toàn cầu giảm 0,4% nhưng tiêu thụ tăng 0,6% và tiêu thụ cao hơn sản lượng 7,7 triệu tấn, nên tồn kho giảm tương ứng, trong khi thương mại gạo không thay đổi ở mức 41,9 triệu tấn. FAO dự báo sản lượng cũng giảm 0,4% nhưng tiêu thụ tăng đến 1,7%, theo đó tiêu thụ cao hơn sản lượng 4 triệu tấn và mức tồn kho cũng giảm tương ứng, trong khi thương mại gạo dự báo tăng nhẹ ở mức 40,5 triệu tấn.
Thái Lan được dự báo tiếp tục XK đứng đầu với số lượng kỷ lục 11 triệu tấn, trên cơ sở bán tồn kho với giá cạnh tranh và mở rộng thị phần thông qua các hợp đồng chính phủ với Iraq, Iran, Trung Quốc, Philippines và Indonesia. Dự báo Thái Lan sản xuất vụ hai sẽ giảm 30%-40%, do thiếu nước và lượng gạo tồn kho đủ tiêu chuẩn XK chỉ khoảng 10%, còn lại 70% là gạo kém chất lượng và 20% hư hỏng. Hạn hán cũng tác động đến sản lượng gạo Ấn Độ, nên lượng gạo Ấn Độ chỉ đạt 102 triệu tấn, giảm 4% so với 106,29 triệu tấn so với niên vụ trước. XK của Ấn Độ sẽ giảm còn 8 triệu tấn.
Trung Quốc dự báo nhập khẩu năm nay tăng 0,3 triệu tấn lên mức 4 triệu tấn. Dự báo Philippines nhập khẩu 1,7 triệu tấn, Malaysia 1,1 triệu tấn và Indonesia 1,3 triệu tấn. Khu vực châu Phi nhập khẩu trên 10 triệu tấn, Nigeria nhập 3,5 triệu tấn.
Các thị trường XK gạo chính của Việt Nam như Trung Quốc sẽ kiểm soát biên giới, ảnh hưởng đến tiêu thụ gạo của Việt Nam. Nhu cầu từ các thị trường Đông Nam Á dự kiến không thay đổi, khoảng 4 triệu tấn nhưng sẽ chịu cạnh tranh từ Thái Lan. Mexico là thị trường có tiềm năng nhưng từ đầu năm nước này đánh thuế nhập khẩu gạo 20% và lúa 9%.


Có thể bạn quan tâm

Hội Thảo Hội Thảo "Chiến Lược Phát Triển Cây Mắc Ca Tại Tây Nguyên"

Ngày 7/2, tại Đà Lạt diễn ra Hội thảo “Chiến lược phát triển cây mắc ca tại Tây Nguyên”. Chủ trì hội thảo gồm có Đại tướng Trần Đại Quang, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an, Trưởng Ban Chỉ đạo Tây Nguyên; ông Vương Đình Huệ, Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương; ông Nguyễn Xuân Tiến, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng Nhân dân tỉnh Lâm Đồng; ông Đoàn Văn Việt, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Lâm Đồng.

10/02/2015
Giá Lúa Giảm Lợi Nhuận Thấp Giá Lúa Giảm Lợi Nhuận Thấp

Tính đến tuần đầu của tháng 2/2015, Sóc Trăng đã thu hoạch được trên 75.000 ha lúa đông xuân, bằng 53% diện tích gieo trồng. Do đặc điểm từng vùng sinh thái, nên thời gian xuống giống giữa các địa phương chênh lệch nhau khá xa. Diễn biến thị trường trong vụ lúa này cho thấy: Thu hoạch sớm có nhiều lợi thế về giá, vì khoảng 3 tuần này lúa rớt giá mạnh.

10/02/2015
Lúa Đông Xuân Sớm Mất Mùa, Rớt Giá Lúa Đông Xuân Sớm Mất Mùa, Rớt Giá

Hiện nay, nhiều nông dân trên địa bàn tỉnh Hậu Giang nói riêng và một số tỉnh ĐBSCL nói chung, đang bước vào giai đoạn thu hoạch sớm lúa Đông xuân chính vụ 2014 - 2015. Khác hẳn với vụ Đông xuân năm trước, năm nay, bà con mua bán lúa trong không khí khá trầm lắng vì lúa mất mùa, rớt giá và nguồn lợi nhuận đang bị giảm.

10/02/2015
Trái Cây Đặc Sản Đón Tết Trái Cây Đặc Sản Đón Tết

Theo thống kê của xã Tân Bình (huyện Vĩnh Cửu) thì các nhà vườn trong xã cung cấp được khoảng 1,5 triệu quả bưởi cho thị trường tết, giảm 25% so với dịp Tết Nguyên đán năm 2014. Nguyên nhân khiến sản lượng bưởi Tân Triều giảm là do thời tiết khắc nghiệt lúc cây ra hoa kết trái, dẫn đến nhiều hộ xử lý không đạt. Sản lượng giảm, nhu cầu tăng nên bưởi Tân Triều vào dịp tết có giá bán lẻ cao ngất ngưởng.

10/02/2015
Sóc Trăng Cảnh Báo Môi Trường Là Cần Thiết Sóc Trăng Cảnh Báo Môi Trường Là Cần Thiết

Quan trắc môi trường để có những thông tin cần thiết, cảnh báo về độ mặn, dịch bệnh, thời tiết, là rất quan trọng đối với người nuôi tôm. Diễn biến thời tiết, khí hậu, dịch bệnh luôn phức tạp, khó lường, người nuôi tôm không chỉ muốn nắm vững thông tin này để chủ động đề phòng, mà còn rất cần thông tin về giải pháp.

20/12/2014