Ương Cá Bột
Ương cá hương là bắt đầu từ con cá bột để đạt cỡ chiều dài 2,5-3 cm.
Sau khi nở kích thước cá bột còn nhỏ, có chiều dài thân 0,6-0,8 cm, hoạt động rất yếu, phạm vi ăn hẹp, khả năng hấp thụ thức ăn kém.
Thời gian đầu thức ăn của loài cá bột rất giốngnhau, đều ăn động vật phù du loại nhỏ. Sau 10 ngày cá lớn dần và bắt đầu phân hoá về thức ăn. Theo quan sát thực tế, từ 14-15 ngày trở đi cá trắm cỏ đã ăn thức ăn xanh như bèo trứng cá, bèo tấm; cá trôi, cá Mrigan đã ăn mùn bã hữu cơ; cá mè trắng đã ăn thực vật phù du,… Tuy sự hấp thụ thức ăn còn bị động nhưng sự đồng hoá thức ăn của cá bột còn rất mạnh.
Vì vậy trong giai đoạn này không thể nuôi thả ngay trong diện tích lớn được mà phải ương nuôi trong diện tích nhỏ, dễ tạo ra môi trường sống tốt giàu chất dinh dưỡng và không có địch hại. Kỹ thuật ương nuôi phải thực hiện nghiêm khắc và chu đáo.
1/ Lựa chọn ao ương: Trước khi ương phải lựa chọn những ao tốt, đạt những tiêu chuẩn sau:
- Nguồn nước phải chủ động dẫn và tiêu dễ dàng.
Theo qui trình ương thì thời gian đầu dẫn nước vào từ từ và nâng cao dần mực nước. Cá bột thích sống ở những vùng nước nông. Sau một thời gian cho thêm nước vào ao để làm cho môi trường sống của cá rộng hơn, đồng thời cải thiện trạng thái hoá học của nước.
- Chất đáy phải thích hợp:
Chất đáy có tác dụng điều chỉnh độ béo của nước, nếu chất đáy tốt có độ pH trung bình 6,5-7,5 thì dễ dàng tạo ra nguồn nước tốt. Nếu chất đấy kém độ pH thấp hoặc rất cao thì khó gây được màu nước và phân bón cũng lãng phí. Theo kinh nghiệm thực tế thì đất bùn là tốt nhất. Độ dày của bùn từ 20-25cm là vừa, nếu quá dày thì dễ gây ra chất độc và trở ngại chi việc kéo lưới.
- Diện tích và độ sâu vừa phải:
Ao ương cá bột vừa nhất là có diện tích khoảng 500-1000m2. Ao rộng quá khó chăm sóc, điều chỉnh màu nước chậm, khi có gió dễ có sóng đánh dạt cá bột vào bờ. Ngược lại ao quá nhỏ thì ương cá bột được ít, chất nước sẽ thay đổi đột ngột do ảnh hưởng của những điều kiện ngoại cảnh sẽ không tốt cho sức khoẻ của cá.
Độ sâu của ao chỉ từ 1-1,2m, cá bột thích sống ở vùng nước nông, gần bờ nên không cần ao sâu.
- Bờ ao chắc chắn không bị rò rỉ.
Bờ ao sẽ hình thành dòng nước chảy, cá tập trung nhiều vào đó không kiếm được mồi sẽ gầy yếu, đồng thời cá dữ cũng theo nước chảy mà lọt vào ao. Những ao bị rò rỉ không chủ động điều tiết mực nước, mất chất màu mỡ, cá sinh trưởng kém và tỷ lệ hao hụt cao.
- ánh sáng đầy đủ:
Thức ăn của cá bột là sinh vật phù du, sinh vật phù du cần ánh sáng để sinh trưởng và phát triển. Do đó bờ ao không nên có nhiều bụi rậm và cây cao, ao thoáng khí nhiều ánh sáng, thức ăn cho cá phong phú hơn.
- Thuận tiện cho việc quản lý chăm sóc:
Để gây thức ăn cho cá ương, thường hay dùng nhiều đến phân chuồng vì vậy ao ương nên ở gần nhà để dễ chăm sóc quản lý. Tuy nhiên, trong thực tế ít có ao đủ các tiêu chuẩn trên, các gia đình nên chú trọng 2 tiêu chuẩn chính là nguồn nước và chất đáy tốt, còn những yêu cầu khác có thể khắc phục dần thông qua những biện pháp tích cực của con người.
2/ Chuẩn bị ao ương:
- Tu bổ ao: Đắp lại những bờ thấp và rò rỉ, chú ý đến mực nước cao nhất để hàng năm đắp thêm những quáng bờ thấp hoặc bị sạt lở, lấp những hang hốc quanh bờ và san phẳng đáy ao.
- Tẩy ao: Sau khi tu bổ, tiến hành việc tẩy ao nhằm tiêu diệt các loài địch hại cá, có các phương pháp tẩy ao như:
+ Tẩy bằng vôi: Nếu dùng vôi cục để tẩy ao thì tháo nước vào khoảng 7-10cm để vôi phân bố đều, lượng vôi dùng là 30-40kg/sào, những ao ít bùn dùng 20-30kh/sào (tức là khoảng 6-10kg vôi cho 100m2 ao). Cách làm: Đào 1 vài hồ ở xung quanh bờ, cho vôi vào tôi rồi dùng gáo vảy đều khắp ao, ngày hôm sau dùng cào, vồ đảo bùn với nước vôi để nước vôi ngầm sâu, tăng hiệu quả của vôi (tuỳ loại nhiều bùn hay ít bùn mà điều chỉnh lượng vôi).
Nếu tẩy ao bằng vôi bột cũng có hiệu quả tốt. Ao sau khi tát dọn, dùng vôi bột (10kg/100m2ao) rải đều khắp đáy ao và xung quanh ao. Sau đó cũng dùng cào sục cho vôi ngấm đều.
Tẩy vôi nên làm vào ngày nắng, khi làm nên tập trung nhiều vôi vào những nơi nước đọng, các mạch nước rỉ màu vàng hoặc nâu đỏ.
Tẩy vôi ao có tác dụng: Diệt trừ cá dữ, trứng ecchs nhái hoặc nòng nọc, một số loại côn trùng có hại, các ký sinh trùng gây bệnh; giải phòng một số chất khoáng bị giữ lại trong bùn; giảm độ chua của ao; giữ độ pH trong ao ổn định.
- Bón lót gây màu: Bón phân trước nhằm mục đích tăng cường các chất dinh dưỡng cho đáy ao, gây nuôi các loại sinh vật nổi có kích thước nhỏ bé phát triển làm thức ăn cho cá để sau khi thả là cá đã có sẵn thức ăn ngay. Cá mau lớn, ít hao hụt. Thời gian bón lót thích hợp nhất là 6-7 ngày trước khi thả cá. Bón sớm quá các loại địch hại có thời gian sinh sản phảttiển. Phân bón thường dùng là phân chuồng. Một sào Bắc bộ dùng 80-100kg phân (khoảng 30-50kg/100m2). Nếu dùng phân bắc thì sử dụng 15-20kg/100m2 ao. Đối với những ao ở miền rừng núi, trung du khó gaya màu thì số lượng phân nhiều hơn số lượng nêu trên.
Phân vẩy đều khắp ao. Nếu có điều kiện thì bừa hoặc cào để trộn đều phân với bùn.
- Tháo nước: Sau khi đã bón lót thì tháo nướcvào ao. Lúc đầu chỉ giữ mức nước 50-60cm. Chỉ tháo nước trước khi thả cá 1-2 ngày. Khi tháo nước vào phải kiểm tra, lọc sạch sinh vật địch hại của cá không cho chúng theo vào.
Những công việc trên cần tiến hành tuần tự và kỹ lưỡng. Công việc chuẩn bị ao làm sao chi sát ngày thả cá bột. Nếu chuẩn bị ao quá sớm, ngoài 10 ngày trở ra thì các loài sinh vật địch hại phát triển trở lại, khi đó phải chuẩn bị lại lần nữa thì rất tốn công và lãng phí phân.
Để giải quyết kịp thời, một số gia đình đã áp dụng các biện pháp sau:
- Tát cạn nước trong ao. Khi ao cạn bắt hết cá giữ đồng thời sửa bờ và sau đó san đáy ao luôn. Nếu có vịt đàn thì cho xuống ao mò một buổi. Sau đó phơi nắng một ngày rồi tháo nước (trường hợp không kịp tẩy vôi vì quá gấp).
- Cách lấy nước vào ao: Khơi một rãnh nhỏ rộng 50cm, một đầu rãnh phía nguồn nước chắn bằng một cái rá đan dày để lọc các loài cá dữ và côn trùng to; một đầu rãnh đặt một ống bương đường kính 10-15cm, hai đầu bịt bằng lưới cước, ống bương thông rỗng cho nước chảy.
3/ Thả cá bột:
cá bột để nuôi thành cá hương có chiều dài 0,5-0,7cm đã tiêu hất noãn hoàng, có khả năng tự bơi lội kiếm ăn. Thời gian cần thiết để ương cá bột thành cá hương là 20-25 ngày.
Mật độ ương cá bột lên cá hương: Tuỳ theo điều kiện ao ở từng nơi (chất đất, chất nước) và điều kiện cung cấp thức ăn, quản lý chăm sóc mà quyết định mật độ từng loại khác nhau. Đối với ao ương cá gia đình nên ương mật độ thưa.
Mật độ ương cá bột lên cá hương
Loài cá nuôi
Mật độ nuôi ở vùng đồng bằng
(con/100m2 ao)
Mật độ nuôi ở vùng núi
(con/100m2 ao)
Cá trắm cỏ
22.000-25.000
10.000-22.000
Cá mè trắng
25.000-30.000
22.000-25.000
Cá mè hoa
25.000-30.000
22.000-24.000
Cá trôi
18.000-20.000
16.000-18.000
Cá rô hu
16.000-20.000
15.000-18.000
Cá Mrigan
16.000-20.000
15.000-18.000
Cá chép
12.000-14.000
10.000-12.000
4/ Thức ăn cho cá và cách cho ăn:
ở giai đoạn cá bột, cá hương đối với cá mè, trắm cỏ, Ro hu, Mrigan tính ăn uống giống nhau và thức ăn sử dụng chủ yếu là chất bột và bón phân gây màu bằng phân chuồng, lá dầm, phân vô cơ (đạm+lân).
Các gia đình nên ương cá kết hợp các loại thức ăn trên, dùng hỗn hợp phân chuồng, phân dầm, phân vô cơ sẽ tận dụng hết được nguồn nguyên liệu sẵn có ở địa phương.
Phương pháp này dùng phân chuồng là chính trong quá trình ương. Sau khi thả cá 2 ngày, bón phân dầm và phân vô cơ sẽ gây màu cho nước nhanh. Số lượng phân bón vào 1 sào ao (sào Bắc bộ = 360 m2) là 80-100 kg lá dầm, 1 kg phân đạm và 0,5 kg phân lân ( Có thể không dùng phân vô cơ cũng được), cứ 4 ngày bón 1 lần. Sau 2 ngày bón phân dầm thì bón hoàn toàn phân chuồng. Số lượng bón 1 lần là 100-150 kg/ sào, bón phân chuồng theo chu kỳ 5-6 ngày 1lần cho đến hết giai đoạn ương.
Phương pháp này gây màu nước tốt 1 cách liên tục, có tác dụng tố nhất đến sinh trưởng của cá.
Phương pháp trên chỉ mới gây thức ăn là sinh vật phù du cho cá bột ở giai đoạn đầu. Từ ngày thứ 10 trở đi, đối với ao ương cá trắm cỏ thì phải thả thêm bèo trứng cá, bèo tấm cho cá ăn, vì lúc này cá trắm cỏ đã ăn được thức ăn xanh. Khi thấy cá đã ăn hết bèo thì tăng dần số lượng lên. Những gi đình có điều kiện thì cho cá ăn thêm thức ăn tinh như bột mỳ, cám gạo, bã đậu, như vậy cá sẽ lớn nhanh, khoẻ và tỷ lệ hao hụt thấp.
Để ương cá hương đạt hiệu quả cao hơn có thể áp dụng các công thức sau:
1/ Ương cá trắm cỏ:
Sau khi thả cá bột được 2 ngày, nấu gạo hoặc đậu nành thành cháo tế kháp ao, ngày cho ăn 2 lần từ 0,1-0,15 kg cho 1m2 ao.
Từ ngày thứ 6-9, có thể dùng cám rắc nổi trên mặt ao thay cho cháo; mỗi ngày cho ăn 1 lần từ 0,3-0,4 kg/m2 ao. Rắc cám ở 1/3-1/2 ao phía đầu gió, đồng thời bổ sung từ 1-2 lần phân chuồng, mỗi lần 1-2 kg/100 m2 ao (phần nguyên chất).
Chú ý: Cũng có gia đìng rải thức ăn tinh cám, bột mỳ quanh bờ ao, vì cá hương hay ăn ở ven bờ. Khi rắc cam hay bột mỳ, nên rắc lên trên bèo tấm, vì chất bột mau chìm xuống đáy ao, cá không kịp hấp thụ.
2/ Ương cá mè:
Một tuần đầu cho cá ăn cháo như cá trắm cỏ, từ ngày thứ 7 đến khi thu hoạch bón phân hữu cơ, lá dầm, phân vô cơ.
Lượng phânbón 1,5-2,5kg/100m2 ao, định kỳ 4 ngày bón một lần, phân được rải đều trên mặt ao.
Lá dầm thả 10-15kg/100m2 ao, mỗi tuần lễ bón 1 lần, lá được bó thành bó nhỏ dìm ngập ở góc ao, sau mấy ngày lại đảo bó lá một lần cho lá rữa hết, các cành lá dầm được vớt lên bờ.
Nếu ao không lên màu có thể bón thêm phân vô cơ với lượng 2lạng đạm + 1lạng lân cho 1m2 ao, 3-4 ngày bón 1 lần.
3/ Ương cá trôi, rô hu, Mrigan:
Về thức ăn và cách cho ăn tương tự như nuôi cá mè, tuy nhiên nuôi các loài cá này với mật độ dày phải tăng cường lượng thức ăn tinh. Cụ thể là: Phân chuồng 1 tuần bón 2 lần, mỗi lần 10-15kg/1m2 ao.
Phân xanh (lá dầm) mỗi tuần bón 1 lần, mỗi lần 20-25kg/100m2 ao. Nếu màu nước lên chậm có thể dùng phân vô cơ (đạm và lân), tỷ lệ N/P=2/1. Một tuần bón 2 lần, mỗi lần 200g/100m2 ao.
Thức ăn tinh: Bột ngũ cốc các loại, có điều kiện thì cho thêm bột cá nhạt; lượng thức ăn hàng ngày 200-300g/100m2 ao, mỗi ngày cho ăn 2 lần vào sáng và chiều tối.
4/ Ương cá chép:
Hàng tuần chăm sóc, bón phân và cho ăn như sau:
Thức ăn tự nhiên: Bón phân để gây nguồn thức ăn tự nhiên trong ao, là các loại lá gọi chung là lá dầm (cúc tần, điền thanh, dây lang,…) bó thành từng bó dìm ngập xuống góc ao cho thối rữa.
Phân lợn, phân trâu bò, phân bắc ủ,… rải khắp mặt ao, lượng dùng 40-60kg/100m2 ao.
Thức ăn tinh: Dùng cám hoặc bột ngũ cốc rắc đều lên mặt ao như sau:
Tuần lễ đầu, dùng 0,5kg/10.000 con cá; tuần lễ 2, dùng 1kg/10.000 con cá; tuần lễ 3, dùng 1,7kg/10.000 con cá; tuần lễ 4, dùng 2,8kg/10.000 con cá.
Trường hợp thiếu thức ăn trên có thể thay bằng các loại thức ăn khác có giá trị dinh dưỡng tương đương.
5/ Quản lý ao ương:
Phải thực hiện thường xuyên từ khi thả cá cho đến hết giai đoạn ương. Trong tình hình cá bột sống bình thường, tốc độ tăng về trọng lượng và chiều dài của chúng rất nhanh, từ độ dài 6-8mm, sau 20 ngày ương cá mè có thể đạt tới kích thước từ 2-3cm, trọng lượng có thể tăng 40-50 lần. Sự thay đổi của môi trường sống ảnh hưởng rõ rệt đến cá bột, trong thời gian ương hàng ngày phải đi thăm ao 1-2 lần.
+ Điều chỉnh mực nước: Khi mới thả chỉ giữ nước mức nông từ 50-60cm, vì nước nông nhiệt độ dễ tăng lên làm sinh vật thức ăn của cá sinh sôi mạnh. Sau khi ương nuôi được vài ngày, cá lớn dần, hàm lượng chất béo tăng nhưng ôxy giảm đi rõ rệt, thể hiện bằng sự nổi đầu của cá mà có nơi gọi là " Cá dậy" vì vậy cần thiết phải thêm nước vào ao theo định kỳ cứ 3 ngày thêm 1 lần, mỗi lần cho đầy thêm 25-30cm. Mỗi khi tháo nước phải chắn bàng lưới cước để cá khỏi ngược ra và cá dữ không lọt vào. Cho thêmnước đếnmức cao nhất của ao, thay thế nước cũ, tăng thêm lượng ôxy hoà tan, cải thiện môi trường nước. Đây là biện pháp tối ưu, tuy nhiên không phải nơi nào cũng có điều kiện làm được, vì vậy cũng có thể làm theo cách sau:
- Đối với ao nuôi trắm cỏ, cá trôi ta, trôi ấn Độ, Mrigan: Sau khi ương được 7 ngày thì thêm nước mới vào ao, cứ 2-3 ngày/lần, mỗi lần thêm 15-20cm, có thể dùng biện pháp vừa cấp vừa xả trong 30 phút.
ở vùng núi thường dùng ống nứa bắc qua mặt ao cho nước chảy qua nhiều lỗ như mưa nhân tạo.
- Đối với ao ương cá mè: Một tuần lễ cho thêm nước1 lần, mỗi lần thêm 10cm, không cần xả nước cũ nếu như nước ao không bị thối.
+ Diệt địch hại: Chủ yếu là bọ gạo, nòng nọc, chúng giết hại rất nhiều cá bột vì vậy cần phải phát hiện kịp thời và tiêu diệt ngay.
- Cách diện bọ gậy: Làm một khung nứa hình vuông có diện tích 2m2, đổ dầu hoả vào khung, cứ 10 hoặc 20 phút lại di động khung đi khắp mặt ao. Bọ gạo ngoi lên thở sẽ bị dính dầu mà chết. Cũng có thể đỏ tràn dầu hoả lên trên mặt ao để diệt bọ gạo cũng không ảnh hưởng gì đến cá. Ban đêm có thể thắp đèn treo lên cọc giữa khung dầu hoả để nhử bọ gạo tìm đến ánh sáng sẽ bị chêts vì dính phải dầu.
- Cách diệt nòng nọc: Nòng nọc là ấu trùng của ếch nhái, cóc còn tồn tại đến tháng thứ 7 nếu trời ít mưa. Nòng nọc dễ lọt vào ao ương sau khi thả cá và ăn hại rất nhiều cá bột. Phương pháp diệt nòng nọc hiệu quả nhất là buổi sáng sớm dùng vợt cá hương hoặc lưới cá hương quây bắt, cá bọt sẽ lọt qua mắt lưới mà không bị ảnh hưởng gì.
+ Đùa luyện cá: Trong suốt thời gian ương cá hương phải định kỳ đùa luyện cá hay còn gọi là quấy dẻo. Ương cá được 1 tuấn lễ thì bắt đầu luyện vào buổi sáng thật sớm. Mỗi ao ương cần 1 hoặc 2 người dùng cào, vồ đảo sát đáy bùn cho nước thật đục, cũng có thể dùng trâu cho lội nhiều vòng trong ao đến khi nước đục ngầu là được. Sau mỗi lần đùa ao thì nên dồn hết rêu, rác nổi trên mặt ao, vớt lên rồi cho thêm nước mới vào ao. Việc luyện cá có nhiều tác dụng:
- Rèn luyện thể chất của cá làm cho cá vận động nhiều, các cơ sẽ rắn chắc hơn, làm cho cá cứng cáp và khoẻ mạnh hơn.
- Tăng cường sự trao đổi chất của cá, làm cho khả năng vận động bắt mồi và đối phó với địch hại được tăng cường hơn.
- Tăng cường sức chịu đựng cho cá trong những điều kiện xấu như là ít ôxy, chất dinh dưỡng nhiều,…lúc san cá và lúc vận chuyển cá sẽ chịu đựng được và không bị chết.
- Xáo trộn chất dinh dưỡng từ đáy ao vào môi trường nước làm cho chất hữu cơ phân huỷ được nhiều không bị lắng đọng đáy ao.
6/ Thu hoạch cá hương:
Thời gian ương cá bột lên hương khoảng 25 ngày thì thu hoạch. Trước khi thu hoạch vài ngày ngừng bón phân và thả lá dầm. Khi thu hoạch giảm mức nước trong ao, còn lại 80cm. Dùng lưới cá hương thu dần, thao tác nhẹ nhàng, không làm cs bị xây sát. Nên thu hoạch vào buổi sáng sớm hoặc ngày mát trời, khi thấy cá trong ao còn ít thì tát cạn ao thu hết.
Nếu nuôi đảm bảo kỹ thuật như trên thì có thể cho tỷ lệ cá sống là: Cá mè thu được 60-70%; Trắm cỏ 50-60%; Cá trôi ta khoảng 50%; Cá Rô hu, Mrigan 50-60%; Cá chép khoảng 45-50%.
II- Ương cá hương lên cá giống
Cá bột sau khi ương khoảng 25 ngày, đạt được kích thước 2,5-3,0cm/con gọilà cá hương, đem nuôi tiếp thành cá giống để đạt cỡ to hơn. Vì lượngnước ao cá hương lúc này đã đạt được cỡ tối đa nhưng so với khối lượng cá hương thì đã trở lên quá chật. Thức ăn thiếu, ôxy không đủ, trạng thái nước xấu dần, cá sẽ không lớn được nữa, vì vậy cần phải san bớt cá ra. Nếu thả luôn loại cá này để nuôi thành cá thịt thì sẽ bị hao hụt nhiều do cỡ cá còn nhỏ, chưa thoát khỏi phạm vi uy hiếp của kẻ thù, khả năng hoạt động kiếmmồi còn yếu nên cần thiết phải ương thêm một giai đoạn nữa. ở giai đoạn này, đặc tính dinh dưỡng của các loài cá đã khác nhau hoàn toàn, môi trường sống cũng phải đảm bảo cho cá sinh trưởng thuận lợi.
Đặc tính dinh dưỡng của các loài cá trong giai đoạn ương cá giống: Ngay từ cuối gia đoạn ương cá trước đã có sự phânhoá về thức ăn của các loài cá. Đến giai đoạn ương này, các loài cá đã hoàn toàn ăn thức ăn như thời kỳ trưởng thành. Cơ thể cá đã tương đối hoàn chỉnh, khả năng hoạt động cũng khá hơn, vì vậy cá cần được ương trongmôi trường rộng, nước sâu. Có thể ương ghép 2-3 loài cá để có thể tận dụng được nguồn dinh dưỡng trong nước.
1/ Ương cá giống mè trắng, mè hoa: Từ 2,5-3cm lên 10-12cm
+ Ao ương: Có diện tích 1000m2 trở lên, độ sâu mực nước từ 1,2-1,5m; độ bùn đáy 25-30cm, bờ ao chắc chắn, cao hơn mực nước cao nhất độ 0,5m, pH=7-8. Việc chuẩn bị ao cũng tương tự như ao ương cá bột lên cá hương.
+ Mật độ thả cá: ở giai đoạn này có thể ương như sau:
- Ương 1 giai đoạn: từ cá hương lên thành cá giống lớn
- Ương làm 2 giai đoạn: Từ 2,5cm lên 5 cm, sau đó lại san ra ương tiếp lên 10cm.
- Ương 1 giai đoạn thì thời gian ương 3 tháng, mật độ ương như sau:
Cá mè trắng: 2.400-3.000 con/100m2
Cá mè hoa: 2.000-2.500 con/100m2.
Các ao ở miền Trung, miền núi, chất nước xấu hơn thì số lượng có thể giảm bớt.
Với mật độ như trên ta có thể ghép các loài cá như sau:
Ao cá mè trắng: Thả 60-80% mè trắng+20-40% trắm cỏ.
Ao cá mè hoa: Thả 60-70% mè hoa + 30% trắm cỏ hoặc 95% mè hoa ghép 5% mè trắng.
Ương làm 2 giai đoạn: Ương từ 2,5-3cm thành cá 5-6cm, thời gian từ 25-30 ngày, mật độ như sau:
Cá mè trắng: 3500-4000 con/100m2
Cá mè hoa: 3000-3500 con/100m2
Ương cá từ 5-6cm thành cá từ 10-12cm, thòi gianương từ 70-80 ngày, mật độ tương tính theo số con/100m2 là:
Mè trắng: 1500-1800 con.
Mè hoa: 1100-1500 con.
Vùng trung du và miền núi thì giảm bớt số lượng cho thích hợp.
+ Chăm sóc quản lý:
Chế độ bón phân, cho ăn tương tự như ở giai đoạn từ cá bột lên cá hương.
Ương giai đoạn 1, mỗi tuần lấy nước vào ao một lần, mỗi lần dâng từ 10-15cm
Ương giai đoạn 2, mỗi tháng lấy nước vào ao một lần, mỗi lần dâng từ 10-20cm. Nếu nuôi ghép cá trắm cỏ trong ao phải giải quyết thức ăn xanh cho cá như bèo tấm, bèo hoa dâu. Cá từ 5-6cm trở lên có thể cho ăn rau, rong, lá sắn,… băm nhỏ, nếu có điều kiện mỗi ngày luyện cho cá một lần.
2/ Ương cá giống trắm cỏ: Từ 2,5-3cm lên 8-10cm
Điều kiện ao ương: Tương tự như ao ương cá mè. Chuẩn bị ao ương tương tự như việc chuẩn bị chung cho các đối tượng cá khác, tuy nhiên ao ương trắm cỏ không phải bón lót.
+ Mật độ nuôi:
- Ương từ 2,5-3cm thành cá 5-6cm mất 25-30 ngày; Ương từ 5-6cm thành cá 10-12cm mất 70-80 ngày; nếu ương thẳng từ 2,5-3cm lên 10-12cm thời gian ương vào khoảng 90-100 ngày.
- Mật độ ương tính theo con/m2 như sau:
Giai đoạn ương cỡ 2,5-3cm lên 5-6cm là 30-40 con. Giai đoạn ương cỡ 5-6cm lên 10-12cm là 15-20 con.
Giai đoạn ương cỡ 2,5-3cm lên thẳng 10-12cm là 25-30 con.
ở vùng trung du, miền núi có thể điều chỉnh mật độ ương thấp hơn.
Theo mật độ ương trên, trong ao ương cá trắm cỏ có thể ương ghép cá mè trắng từ 30-40%, cá trắm cỏ 60-70% hoặc cá trắm cỏ 30-40% với 60-70% cá mè trắng.
+ Chăm sóc, quản lý:
- ở giai đoạn ương từ 2,5-3cm, thức ăn xanh hàng ngày từ 30-40kg bèo tấm/1 vạn cá. Ngoài ra còn cho cá ăn thêm thức ăn tinh với lượng 300-400g/100m2/ ngày. Thức ăn tinh có thể là bột mỳ, bột ngô, cám gạo,… trong 10 ngày đầu có thể bón phân chuồng, cứ 3 ngày 1 lần, mỗilần 5-7kg/100m2 ao.
- Sang giai đoạn 5-6cm lên 10-12cm, thức ăn xanh hàngngày cho 1 vụ cá từ 60-80kg gồm bèo dâu, rau nấp, lá sắn, rong,… băm nhỏ. Thức ăn tinh từ 2-4kg/1 vạn cá/ngày. Khi cá đạt cỡ 8cm trở lên thức ăn xanh không cần phảo băm nhỏ và có thể cho ăn thêm cỏ non.
Chú ý: Cá trắm cỏ rất dễ bị mắc bệnh đường ruột, tỷ lệ hao hụt lớn nhất ở giai đoạn này, vì vậy phải cho cá ăn thức ăn sạch, tuyết đối không cho ăn thức ăn thiu thối hoặc mốc, lên men.
Đối với cá trắm cỏ trước khi thu hoạch 2 ngày phải ngừng cho cá ăn, dùnglưới luyện cá từ 2-3 lần.
3/ Ương cá giống trôi Việt.
Đối với cá trôi ta, khi ương nuôi người ta thường thả ghép cá mè và trắm cỏ để tận dụnh hết thức ăn vùng nước.
Nếu ương cá trôi dày trong ao phải thường xuyên cho cá ăn thức ăn tinh hàng ngày, chiếm từ 3-4% trọng lượng thân. Ương cá trôi tốt nhất là ao đất thịt pha cát, đáy rắn, ít bùn.
Thức ăn tinh cho cá trôi là các loại bột gạo, bột nhô, cám, bã đậu… Hai tuần đầu, cứ 10.000 con cá mỗi ngày cho ăn 4 lạng chất bột. Tuần thứ 3&4 tăng lên 7 lạng /ngày, tuần thứ 5&6 cho ăn 1kg/ngày, tuần thứ 7&8 cho ăn 1,5 kg/ngày. Mỗi ngày cho ăn 2 lần vào sáng và chiều.
Ao ương cá trôi ghép cũng cần bón thêm phân chuồng mỗi tuần 1 lần, mỗi lần 15 kg/100m2. và thả thêm lá dầm cho tăng mầu nước.
- Ương từ 2,5-3cm lên 5-6 cm, mật độ 40-50 con/m2; thời gian ương khoảng một tháng rưỡi; tỷ lệ sống đạt trên 70%.
- Ương từ 5-6 cm lên 8-10 cm với mật độ 20-25 con/ m2, thời gian ương 2 tháng, tỷ lệ sống đạt 75%.
Khi thu hoạch cá trôi giống, khác với cá mè, trắm cỏ, cá trôi hay nhảy và dễ chết khi nước ao bị đục và thiếu ô xy, vì vậy trước khi thu hoạch phải luyện thật kỹ. Trước khi tát cạn để tổng thu hoạch, phải dùng lưới thu cơ bản gần như hết rồi mới cho cạn hoàn toàn.
4/ Ương cá giống trôi ấn và Mrigan.
Kỹ thuật ương cá trôi ấn độ và cá Mrigan không khác lắm so với cá trôi ta. Đối với cá Mrigan (mà nhân dân thường gọi là cá " Digan") cũng có phổ thức ăn như cá trôi ta nhưng chúng ăn mạnh và lớn nhanh hơn nhiều.
Ao ương 2 loại cá này có diện tích 500-1000 m2. Độ sâu mức nước trong ao là bùn cát hoặc cát bùn, độ dày bùn đáy 25-30 cm.
Công tác chuẩn bị ao ương tương tự như ở giai đoạn từ cá bột lên cá hương mè. Mật độ nuôi khoảng 50 con/ m2 .
Chế độ bón phân tương tự như bón ao ương cá mè ở giai đoạn từ cá bột lên cá hương.
Thức ăn tinh hàng ngày cho ăn bằng 3-4% trọng lượng thân cá. Thức ăn tinh cũng là các loại bột gạo, cám, bột ngô, bã đậu…Số lượng cho ăn theo độ lớn của cá: 2 tuần đầu cứ 10.000 con cá ăn 400 g chất bột/ ngày; tuần thứ 3 tăng lên 700g/ngày; tuần thứ 5&6 cho ăn 1kg/ngày; tuần thứ 7,8 cho ăn 1,5 kg/ ngày. Mỗi ngày cho ăn 2 lần vào sáng và chiều.
Uơng như vậy trong vòng 8 tuần, cá đạt 5-6 cm, tỷ lệ sống 70%. Trường hợp muốn có cá giống lớn 8-12 cm phải ương cá ở mật độ 25-30 con/ m2 và kéo dài thêm 25-30 ngày.
Không nên ương ghép các loài cá trôi ta, Rô hu và Mrigan vào 1 ao vì chúng cạnh tranh thức ăn. Cá Mrigan khoẻ, ăn mạnh sẽ lấn át cá trôi ta.
5/ ương cá giống chép:
Ao ương cá chép giống có diện tích 400-800m2, độ sâu 1,2-1,5m, độ dày bùn đáy 25-30cm.
Công Việc chuẩn bị ao tưng tự ao ương cá mè giống. Mật độ thả 10-15 con/ m2.
Quản lý chăm sóc: Dùng phân chuồng, phân bắc bón ao, mỗi tuần bón 2lần, mỗi lần bón 6-7kg/100 m2 ao. Phân xanh bón 1 tuần 1 lần, mỗi lần khoảng 12kg/100 m2 ao.
Về thức ăn tinh: Cá chép ở giai đoạ này đã chuyển sang ăn các loại động vật đáy, sinh khối động vật trong ao lại rất thấp, vì vậy việc cung cấp thức ăn tinh ở giai đoạn này là tối cần thiết, được cung cấp từ tuần đầu đến tuần cuối. Từ tuần 1-2, lượng thức ăn tinh từ 4-5kg/1vạn cá; tuần thứ 3-4, cho ăn 9kg/1vạn cá; tuần 5-6, cho ăn 15kg/1vạn cá. Thức ăn tinh được hoà với nước ở dạng sền sệt thả xung quanh ao, cố định từ 4-8 điểm trong quá trình ươm.
Quản lý ao ương: Ao ương cá chép càng về sau càng đục nên không phải đùa khuấy mà chỉ cần kiểm tra độ sinh trưởng của cá.
Thu hoạch: Dùng lưới cá giống kéo khoảng 3 lần, sau đó gạn ao thu hoạch toàn bộ. Cá giống có thể đưa lên giai, bể luyện từ 8-12 giờ trước khi vận chuyển đi xa.
Chú ý: Ao ương cá chép cũng nên ghép với cá mè và một ít trắm cỏ để tận dụng thức ăn trong nước.
6/ Ương cá trê lai:
a/ Ương cá bột lên hương (21 ngày):
Cá bột trê lai hiện nay chưa sản xuất được nhiều, giá thành cao, việcương nuôi cần được quảnlý tốt. Vì vậy việcương cá con không áp dụng như qui trìnhương cá mè, trôi, trắm, chép nêu trên, mà ương theo chế độ riêng như sau:
- Nơi ương: Dùng chậu, bể xây, thùng gỗ lót nilon giữ nước sâu 20-30cm đối với chậu, 40-50cm đối với bể.
- Mật độ thả: Tuỳ thuộc vào diện tích bể ương, chế độ chăm sóc và thay nước. Cá bột 4-5 ngày tuổi thả 1500-2000 con/ m2.
- Cho ăn: 3 ngày đầu cho ăn động vật nổi (thuỷ trần, bọ đỏ), lòng đỏ trứng gà, trứng vịt luộc bóp nhuyễn. Thuỷ trần vớt ở ao về nên được lọc lại bằng vợt để loại bỏ những con giáp xác cỡ to và các tạp chất có thể gây hại cho cá bột.
Từ ngày thứ 6 trở đi cho cá ăn giun đỏ, đồng thời vẫn cho ăn cả thuỷ trần để cá mau lớn. Cho ăn 4 lần/ngày đêm, lượng thức ăn trong 2 tuần đầu là 50-100g/1 vạn con/ngày đêm.
Sang tuần thứ 3 nâng cao mức nước bể và tăng thêm thức ăn, có thể cho ăn giun quế, tôm, cá luộc nghiền nhỏ nấu với bột ngũ cốc, trong đó tỷ lệ động vật chiếm 1/3.
Lượng thức ăn 200-300g/vạn cá/ngày đêm. Sau 21 ngày cá hương đạt chiều dài 4-5cm, tỷ lệ sống 60-80%.
b/ Ương cá hương lên cá giống:
Tiếp tụcương lên cỡ cá giống 6-7cm, ương trong bể xây, thùng lót nilon, giai chứa hoặc ao đất, diện tích có thể từ vài m2 đến hàng chục m2. Mức nước sâu 0,5-0,6m.
Mật độ phụ thuộc vào diện tích nuôi, chế độ thay nước, chế độ cho ăn:
- Mật độ từ 1000-1500 con/ m2 nếu chủ động thay nước và thức ăn đầy đủ.
- Mật độ 200-500 con/ m2 nếu không thay nước thường xuyên, thức ăn kém chất lượng.
Lượng thức ăn 30-50g/1000 con/ngày đêm.
c/ Chăm sóc
Thường xuyên chăm sóc sự hoạt động của cá, cọ rửa dụng cụ hàng ngày, vớt bỏ những con cá yếu và chất bẩn, nếu nước nhiễm bẩn cá sẽ chết hàng loạt.
Khi thay nước phải nhẹ nhàng,mỗi ngày thay 2/3 nước cũ. Hàng ngày điều chỉnh lượng thức ăn vừa đủ cho cá.
Có thể bạn quan tâm
Cá rô phi đỏ hay còn gọi là cá điêu hồng (Red Tilapia) hiện đang được nuôi khá phổ biến ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, mang lại giá trị kinh tế cao. Những đặc điểm sinh học cơ bản trong điều kiện thả nuôi được xác định như sau
Người nuôi cá điêu hồng không ai không gặp qua bệnh nổ mắt và bệnh trắng mang, thối mang trên cá điêu hồng. Bệnh thường xảy ra vào mùa có nhiệt độ nước tăng cao, khi hàm lượng oxy hoà tan trong nước thấp, cá nuôi với mật thả cao, trọng lượng cá từ 100g trở lên. Bệnh xảy ra gây thiệt hại nghiêm trọng cho người nuôi (50-70%). Thông tin sau sẽ giúp người nuôi hiểu rõ hơn về hai bệnh này từ đó có cách phòng trị
Mô hình nuôi cá điêu hồng trong vèo lưới đặt trong ao có thể là kiểu nuôi đại diện cho các mô hình nuôi ao, nuôi lồng, bè, bởi những ưu điểm như: Thịt cá sẽ không hôi mùi cỏ; mật độ thả cá cao hơn vài lần so với nuôi ao đất...
Cùng với các loại hoa quả, cây cảnh... được tạo dáng, chăm sóc kỹ để phục vụ người tiêu dùng vào dịp Tết Canh Dần, trên địa bàn tỉnh Bình Thuận còn có thêm sản phẩm mới là cá diêu hồng (còn gọi là cá rô phi đỏ) đang được tiêu thụ mạnh
Ông Nguyễn Văn Thiền, ngụ ấp Mỹ Khánh, xã Mỹ Hòa Hưng nuôi cá điêu hồng mang lại thu nhập cao, cải thiện cuốc sống gia đình. Sau đây là những kinh nghiệm về kỹ thuật nuôi mà anh có được sau một vụ nuôi