Ứng dụng công nghệ biofloc trong nuôi thâm canh cá rô phi
Nguyên lý
Hệ thống biofloc cho phép các chất thải hữu cơ và quần thể vi sinh vật tồn tại trong ao nuôi.
Thông qua quá trình xáo trộn nước và sục khí để duy trì sự hiện diện của các hạt floc, chất lượng nước được đảm bảo.
Quản lý hệ thống nuôi theo công nghệ biofloc không đơn giản, đòi hỏi những kỹ thuật tương đối phức tạp cần thiết để đảm bảo cho hệ thống hoạt động tốt và đạt năng suất cao.
Hệ thống biofloc có thể vận hành với tỷ lệ trao đổi nước rất thấp (khoảng 0.5 – 1%/ngày).
Trao đổi nước ít giúp cho sự phát triển và hoạt động của biofloc tốt hơn để tăng cường xử lý chất thải hữu cơ và các chất dinh dưỡng.
Trong hệ thống biofloc, thay nước để duy trì chất lượng nước trong ao nuôi được giảm tối thiểu, thay vào đó, việc xử lý chất thải được thực hiện ngay bên trong hệ thống nhờ vào vai trò của các vi sinh vật dị dưỡng.
Lợi ích
Biofloc cung cấp vai trò quan trọng là xử lý chất thải hữu cơ và là nguồn dinh dưỡng tốt cho ao cá rô phi.
Việc nuôi cá rô phi bằng công nghệ biofloc trong nuôi thâm canh cá rô phi thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của cá nuôi với năng suất cao, hiệu quả sử dụng thức ăn được cải thiện, góp phần làm giảm ô nhiễm môi trường ao nuôi.
Ngoài ra còn nâng cao an toàn sinh học, nâng cao hiệu quả sử dụng và khả năng kiểm soát nước, giảm sự ảnh hưởng biến động thời tiết.
Quy trình nuôi
Cá rô phi được chọn vào nuôi là cá đơn tính đực dòng Novit 4, kích thước 7 – 10 g/con, nuôi với mật độ 5 con/m2.
Cho ăn 2 lần/ngày, với mức độ đáp ứng 90% so với nhu cầu.
Mỗi tuần cho cá nhịn ăn 1 ngày để kích thích cá sử dụng sinh khối biofloc trong ao.
Lượng biofloc cần cung cấp trong tháng đầu tiên là 3 – 5 ppm/ngày.
Từ tháng thứ 2, khi có sẵn lượng Biofloc trong hệ thống thì ta chỉ cần bổ sung thêm chế phẩm sinh học có thành phần vi sinh là nhóm vi khuẩn Baciluss để duy trì ổn định lượng biofloc trong ao.
Bổ xung mật rỉ đường có hàm lượng Cacbon là 37,5%, 1 tuần/lần, để cung cấp thêm nguồn Cacbon.
Trong quá trình nuôi, vận hành hệ thống sục khí đáy suốt ngày đêm kết hợp với máy quạt nước để trộn đều nước ao từ tầng đáy lên tầng mặt và tạo dòng nước chảy trong ao.
Trong 2 tháng đầu chỉ chạy máy quạt nước khi bón bổ sung rỉ đường và biofloc mồi.
Sau đó sử dụng cả sục khí đáy và quạt nước liên tục cho đến khi thu hoạch để duy trì dưỡng khí và đảm bảo biofloc lơ lửng trong nước.
Thu hoạch
Ứng dụng tại Hải Dương với mô hình quy mô 5 ha, sau 6 tháng, trung bình của cá nuôi đạt 624,2 g/con, Năng suất đạt 26 tấn/ha/vụ nuôi 6 tháng; thời gian cá đạt đến cỡ trung bình 500 g/con sớm hơn 18 ngày so với nuôi thâm canh thông thường.
Về hiệu quả kinh tế, tổng đầu tư cho 1ha nuôi thâm canh cá rô phi thương phẩm có ứng dụng biofloc khoảng 542 triệu đồng; tổng doanh thu 689 triệu đồng; lãi ròng 147 triệu đồng; tỷ lệ lợi nhuận/vốn đạt 27,1% cho một chu kỳ nuôi 6 tháng.
Tuy nhiên, theo nhận xét của nhóm nghiên cứu, ứng dụng thực nghiệm thì mô hình này phù hợp với những cơ sở nuôi có khả năng đầu tư cơ sở hạ tầng và công nghệ.
Có thể bạn quan tâm
Với mật độ rong câu thả khác nhau, khả năng hấp thụ các chất vô cơ hoà tan như cũng khác nhau. Mật độ rong câu thả 300 gam/m2 cho thấy hiệu quả hấp thụ các chất dinh dưỡng vô cơ hoà tan là cao nhất.
Ở nước ta, hàng năm có khoảng 5.000-7.000 tấn cá rô phi được tiêu thụ nội địa. Rô phi là một loài cá nuôi rất có kinh tế và là loài có sức đề kháng cao hơn so với các loài khác.
Việc tận dụng mặt nước ở hồ chứa nước để có nguồn cá giống một cách chủ động, bảo đảm số lượng và chất lượng, kịp thời, giá rẻ để phục vụ cho việc nuôi cá rô phi thương phẩm là một ý tưởng tốt và hiện thực.
Công ty nuôi và dịch vụ thủy sản thàng phố Hồ Chí Minh cũng đã áp dụng biện pháp công ngệ sản xuất của học Viện công nghệ châu á (AIT) đạt tỷ lệ cá đực 95 – 96,7% tổng đàn. Ngoài cá rô phi vằn dòng Đài Loan, công ty còn nhập thêm rô phi vằn dòng thái lan (trắng sọc) và rô phi vằn dòng đỏ Malaixia.
Cá rô phi vằn có thể sinh trưởng và phát triển ở cả môi trường nước ngọt, lợ, mặn. Tuy cá rô phi vằn có thể sinh sống một thời gian ngắn ở ở nước biển có độ mặn tới 32%, nhưng loài này vẫn là loài hẹp muối hơn những loài cá rô phi khác.