Thuốc cấy tạo trầm từ dịch kiến
LTS: Sau khi chuyên trang Học hỏi – Làm giàu đăng bài “Cơ hội giàu hơn từ dó bầu” (Báo NTNN số ra ngày 6.10), nhiều bạn đọc đã bày tỏ quan tâm, muốn tìm hiểu sâu hơn sáng chế thuốc cấy tạo trầm từ dịch kiến.
Lược trích bài viết khoa học của GS Đinh Xuân Bá – Giám đốc Trung tâm Sinh học ứng dụng Secoin về sáng chế độc đáo của nông dân Trương Thanh Khoan (ấp Phú Lâm 3, xã Phú Sơn, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai).
Mục đích của bài viết này là thử lý giải cơ sở khoa học của phát minh nói trên.
Chỉ ra được một cách thuyết phục căn cứ khoa học của sáng chế này mới có thể đưa một thành quả sáng tạo độc đáo của thực nghiệm thành một tài sản trí tuệ, mới có thể gắn cho một kinh nghiệm quý báu của nông dân Việt một ngôn ngữ chuyên nghiệp chung với thế giới và mới có thể phát triển sản phẩm của nó trong nước và ra nước ngoài.
Để làm việc đó cần có các hiểu biết sơ lược về:
- Kích cảm tạo trầm (Agarwood inducment) là gì?
- Kiến và quần hợp hỗ sinh kiến-nấm (association of ant-fungus mutualism).
Kích cảm tạo trầm là gì?
Một số loài dó (ví dụ các loài thuộc chi Aquilaria) có khả năng sinh trầm trong lõi của cây nhưng sau vài chục năm phát triển tự nhiên thì chỉ khoảng 10% số cây dó có trầm trong lõi, đó là trầm hương tự nhiên rất quý, hiếm và đắt.
Theo Robert A.Blanchette và Pheeraphan Wijitphan thì trầm là sản phẩm của quá trình phản ứng tự vệ của cây dó chống lại các tác nhân tấn công từ bên ngoài như gây thương cơ học, nấm, nấm men, vi khuẩn, hormone thực vật, pheromone, hóa chất...
GS Đinh Xuân Bá (trái) và ND Trương Thanh Khoan xem sản phẩm trầm hương được tạo ra từ dịch kiến.
Sau đó rất nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam và các nước khác đã tìm cách làm ra các chế phẩm tạo trầm để sau khi gây thương tích cho cây dó họ sẽ “tiêm” các chế phẩm này vào các vết thương đó, sau một thời gian trầm dần hình thành bao quanh các vết thương nói trên.
Chất lượng và số lượng trầm hình thành phụ thuộc vào chất lượng của chế phẩm, cách tạo thương tích và sức sống của cây cùng thổ nhưỡng và thảm thực vật liên quan.
Đó là cách kích cảm tạo trầm (Agarwood inducement).
Trầm được tạo ra bằng cách này được gọi là trầm nuôi cấy (cultivated agarwood).
Chế phẩm nói trên được gọi là thuốc cấy hay chất kích cảm (inducer, inoculant).
Hiện nay đã có vài chục loại thuốc cấy khác nhau mà thành phần của chúng thường được giữ bí mật.
Nhưng nói chung các thành phần chính của các thuốc cấy (inducer) là:
- Một số nấm hay vi nấm (fungi, microfungi).
- Một số hóa chất, ví dụ formic acid, methyl jasmonate, chitosan, sodium bisulfite...
- Một số vi khuẩn (bacteria), nấm men chiết (yeast extract), dưỡng chất thực vật (plant nutrient media) và chất điều hòa sinh trưởng (plant regulator).
Người ta truyền inducer vào cây dó qua các lỗ khoan phân bố rải rác trên cây, sau một thời gian trầm sẽ hình thành bao quanh các lỗ khoan đó.
Người ta cũng có thể dùng các bộ truyền dẫn thuốc (transfusion set) để truyền thẳng thuốc cấy vào mạch xylem của cây, bằng cách đó thuốc cấy được đưa vào từ từ và ngấm dần theo mạch xylem để đi gần khắp cây, ta gọi đó là cách gây nội thương và trong trường hợp này trầm hình thành dọc theo mạch xylem.
Kiến và quần hợp hỗ sinh kiến-nấm
Cùng sống với loài người trên hành tinh này là các bầy đoàn kiến đông đúc có tính tổ chức xã hội bậc cao (giống như ong).
Trong một tổ kiến thường có kiến thợ, kiến lính, kiến công chúa (princess), kiến chúa (queen)...
Một tổ có thể chỉ có 1 kiến chúa (monogyny) hoặc nhiều kiến chúa (polygyny).
Nếu giả thiết rằng một con kiến trung bình nặng 45mg thì sinh khối của toàn bộ loài kiến tương đương với sinh khối của toàn bộ loài người.
Kiến có mặt ở khắp nơi trên trái đất, đặc biệt là trong các rừng mưa nhiệt đới và cận nhiệt đới...
Năm mươi triệu năm trước đây kiến đã biết làm “nông nghiệp”, cụ thể là:
- Kiến có thể chăn nuôi, ví dụ có loài kiến thường nuôi rệp (aphid).
Rệp thường tiết ra dịch ngọt (honeydew) mà kiến rất thích ăn.
- Kiến có thể trồng trọt, phổ biến nhất là kiến trồng nấm.
Một số kiến thợ đi tìm nguồn lá và cắt lá, các kiến thợ khác xén nhỏ lá đã cắt để vận chuyển về tổ, trong khi các kiến lính thì hoặc đứng canh tổ, hoặc đi theo bảo vệ đàn kiến chuyển vận lá.
Tại tổ, lá được nghiền vụn ra, và được trộn đều cùng với dịch do kiến tiết ra (thường chứa enzyme), bổ sung thêm các vi khuẩn thường sống cộng sinh với kiến, sau đó các kiến thợ cấy lên đó những sợi nấm giống chúng đã cất giữ từ trước.
Sau một thời gian, nấm mọc lên tạo thành một “vườn nấm”, kiến thợ chọn lọc nấm tốt, loại bỏ nấm xấu, giữ lại nấm giống, còn lại cất vào kho thức ăn.
Đối với quan hệ hỗ sinh kiến nấm (ant-fungus mutualism), có hai vấn đề liên quan đến sáng chế của nông dân Trương Thanh Khoan nói trên mà ta cần làm rõ: Một là có bao nhiêu loài kiến trồng nấm và chúng thuộc các chi nào? Hai là tên và chủng loại các loài nấm mà chúng thường trồng?
Có khoảng 260 loài kiến trồng nấm thuộc vào 18 chi của tông Attini, trong đó có 8 chi chính với 237 loài.
Người viết bài này đã thu thập được thông tin sơ bộ về 237 loài kiến nói trên và sẵn sàng trao đổi với độc giả nào quan tâm.
Thuốc cấy tạo trầm được chế biến bởi kiến
Trở lại năm 2010, nhà phát minh nông dân Trương Thanh Khoan sau khi phát hiện được một loài kiến làm tổ trên cây dó đã bắt đầu nghiên cứu tập quán sinh sống của kiến, thuần dưỡng kiến, làm “chuồng” gỗ nuôi kiến, trồng cây lấy lá cho kiến ăn và cho kiến uống nước dừa.
Cho đến nay ông Khoan đã có 20 chuồng kiến, mỗi chuồng có một tổ kiến, kiến có màu rêu xanh.
Giả sử mỗi tổ có 7.000 con kiến (thuộc loại kiến nhỡ) thì hiện nay ông Khoan đang nuôi khoảng 140.000 con kiến với tổng sinh khối khoảng 3,5 tấn kiến.
Phải chăng kiến ông Khoan đang nuôi là một trong 260 loài kiến nói trên?
Ông Khoan đã thiết kế chuồng kiến sao cho có thể dễ dàng thu hoạch gongylidia, vắt ép và lọc nó để lấy một dung dịch đặc mà ông gọi tên là dịch kiến.
Sau đó, cứ mỗi lít dịch thường (bao gồm các chất dinh dưỡng và điều hòa sinh trưởng nhưng không có axit vô cơ), ông bổ sung thêm 10ml dịch kiến nói trên để làm ra thuốc cấy tạo trầm mà sau đây được gọi là ApI (Ant-processed Inducer) -tức là thuốc cấy tạo trầm được chế biến bởi kiến.
Việc dùng ApI để kích thích tạo trầm đã đạt được thành công tại một số nơi ở Việt Nam, Thái Lan và Campuchia.
Ngày 6.10.2014, ApI đã được chính thức thông báo ra thị trường nước ngoài.
Bạn đọc theo có thể xem bài viết đầy đủ của GS Đinh Xuân Bá trên báo điện tử Dân Việt.
Hiện nay một tổ nghiên cứu và phát triển ApI đã bước đầu được thành lập.
Bạn đọc quan tâm có thể liên hệ với GS Đinh Xuân Bá theo địa chỉ: Biệt thự KL41, khu biệt thự Kim Long (đối diện 673 Nguyễn Hữu Thọ), Nhà Bè, TP.Hồ Chí Minh.
Điện thoại: 0913207676.
E-mail: dxb@secoin.vn
Có thể bạn quan tâm
Hiệp định thương mại tự do (FTA) Việt Nam – Liên minh châu Âu (EU) khi được thực hiện sẽ mở ra nhiều cơ hội thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản vào thị trường EU rộng lớn với hơn 500 triệu người tiêu dùng và GDP hơn 17.000 tỷ USD.
Năm 2012, Đề án nâng cao năng suất và chất lượng tôm nuôi tại huyện Năm Căn (Cà Mau) thực hiện đạt thấp, nhất là nuôi tôm công nghiệp. Kế hoạch đề ra là chuyển đổi 200 ha sang nuôi tôm công nghiệp, nhưng chỉ đạt hơn 31 ha.
Từ một huyện chỉ độc canh về cây lúa, đến nay huyện Lộc Bình (Lạng Sơn) đã có nhiều chuyển đổi tích cực đa dạng hóa về cây trồng, vật nuôi. Các mô hình như: Nuôi lợn nái Móng Cái, nuôi giun kết hợp làm VAC, nuôi trâu bò vỗ béo và trồng các loại rau màu có giá trị kinh tế cao đang ngày được nông dân mở rộng. Cùng với nhiều loại hình kinh tế phát triển nói trên, ở huyện Lộc Bình hiện nay còn có những mô hình được nhiều bà con quan tâm cần được nhân rộng đó là: Nuôi gà nhiều cựa thả vườn.
Để nuôi cá lóc, nông dân ở xã Đại An (huyện Trà Cú) không chỉ vất vả đào ao mà họ còn phải cất công khoan giếng lấy nước ngọt nuôi cá. Sau hơn 4 tháng nuôi bà con thu về bạc 100 triệu, cao gấp 50 lần so với trồng lúa.
Mặc dù ngành chức năng đã khuyến cáo các hộ nuôi tôm không thả nuôi tôm trái vụ để cải tạo ao đầm, nhưng người dân ở nhiều địa phương vẫn tiếp tục thả nuôi vụ mới, bất chấp rủi ro dịch bệnh do điều kiện thời tiết không thuận lợi.