Thuần tôm trước khi thả ao
Một bước đi quan trọng như cách đây 30 năm
Việc thích nghi của tôm giống trước khi thả vào ao thương phẩm, mương hoặc bể là một bước quan trọng trong quá trình nuôi tôm. Ảnh của Darryl Jory
Quá trình nuôi tôm liên quan đến một số bước chính theo trình tự, từ việc mua tôm ở các trại giống để nuôi chúng với quy mô thương mại trong các hệ thống khác nhau (bể, ao, mương) đòi hỏi sự theo dõi và quản lý thường xuyên cũng như cường độ sản xuất khác nhau (thâm canh đến siêu thâm canh).
Ngoài ra còn có một số bước ít quan trọng hơn nhìn chung là thời gian ngắn hơn (vài giờ đến vài ngày) nhưng có thể liên quan đến sự thành công hoặc thất bại của quy trình. Một trong những bước này là giúp tôm giống thích nghi với các điều kiện môi trường hiện có trong các hệ thống nuôi vỗ, thường rất khác so với các điều kiện phổ biến ở trại sản xuất giống.
Những thay đổi đột ngột về điều kiện môi trường có thể gây ra căng thẳng đáng kể, mặc dù không gây chết tôm nhưng có thể dẫn đến tốc độ tăng trưởng chậm hơn và làm giảm tổng năng suất cũng như lợi nhuận vào cuối chu kỳ sản xuất.
Các điều kiện nuôi để phát triển tôm giống liên quan đến môi trường tương đối an toàn, có thể dự đoán được nhiệt độ nước và độ muối ổn định, thức ăn luôn luôn có sẵn và không có mối đe dọa nào. Hầu hết người nuôi tôm phải bỏ ra nhiều nguồn lực đáng kể và nỗ lực trong quá trình chuẩn bị ao nuôi để thả tôm giống vào môi trường nuôi dưỡng có điều kiện tốt nhất, không bị kẻ thù, đối thủ cạnh tranh đe dọa và stress, cũng như cung cấp đủ lượng thức ăn cho cơ thể.
Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi từ điều kiện sản xuất giống sang các hệ thống nuôi mở như bể chứa và ao hồ, với điều kiện nước liên tục hoặc thay đổi không thể lường được (ngày / đêm, mùa khô / mùa mưa trong chu trình sản xuất) có thể gây stress cho tôm giống trừ khi quá trình chuyển đổi từ từ và căng thẳng được giảm thiểu. Bài viết này sẽ xem xét một số khía cạnh chính đối với sự thích nghi của tôm, được xem như một bước đi quan trọng dẫn đến thành công.
1/ Đánh giá khả năng chịu đựng của tôm giống
Có sự khác biệt đáng kể về sức khỏe hoặc " sức chịu đựng " của sản xuất tôm giống và các tác giả khác nhau đã gợi ý rằng quy trình thích nghi phải được thiết kế phù hợp với "sức khoẻ" của tôm giống, ở đó những con khỏe mạnh hơn có thể thích nghi với tốc độ nhanh hơn những con yếu. Những thử nghiệm căng thẳng khác nhau đã được sử dụng để thách thức một loạt vật nuôi và xác định sức chịu đựng của tôm giống nhằm quyết định phương pháp thích nghi phù hợp. Ở thử nghiệm này, người ta thường lấy từ 100 đến 200 con tôm mẫu bị gây sốc nhiệt, thẩm thấu và / hoặc hóa chất trong một đến bốn tiếng đồng hồ và "đếm những con sống sót".
Một thách thức được sử dụng rộng rãi là thách thức được đề xuất bởi Clifford (Các Kỷ yếu của Phiên họp Đặc biệt về Nuôi tôm. Hội nuôi trồng thủy sản thế giới, Baton Rouge, LA, U.S.A. 1992). Ông đề xuất một phương pháp kiểm tra căng thẳng chuẩn đó là đem những con tôm mẫu đặt trong một thùng chứa hoặc bể chứa, và độ mặn của nước và nhiệt độ đồng thời giảm xuống còn 20 ppt và 10 độ C tương ứng, trong bốn giờ (nếu thử nghiệm kéo dài dưới 4 tiếng sẽ không tính được đầy đủ tỷ lệ chết của tôm giống).
Một biến thể của thử nghiệm này là sử dụng thách thức formalin 100-150 ppm. Tỷ lệ sống sót 80-100% cho thấy tôm giống có chất lượng cao, tỷ lệ 60-79% được coi là chấp nhận được, và tỷ lệ sống dưới 60 phần trăm thì số tôm giống cần được loại bỏ hoặc phải giữ thêm vài ngày nữa ở ao nuôi giống để thử cải thiện sức khỏe và chất lượng.
Ngoài ra, hai nhà khoa học Brock and Main (Viện Hải dương học Honolulu, HI UNIHI-SEAGRANT-CR-95-01., 241 trang 1994) cũng đã đưa ra một phương pháp để kiểm tra stress cho tôm dựa trên nhiệt độ và / hoặc độ mặn đó là: thu thập ngẫu nhiên 100 tôm giống rồi đặt trong một xô chứa 10 đến 15 lít nước ở 22 o C và 5 ppt (hai phép thử tham số) hoặc nhiệt độ môi trường xung quanh của trại sản xuất giống và 0-1 ppt. Vật nuôi được duy trì tại những điều kiện này trong một giờ. Sau đó, đếm những con sống sót (bơi và phản ứng bình thường). Mẫu tôm giống được cho là đáp ứng yêu cầu nếu tỷ lệ sống sót ở mức 80 phần trăm hoặc cao hơn.
Các trạm thích nghi tạm thời đối với tôm sú. Chú ý ngăn xếp các hộp vận chuyển bằng giấy (trái); bể thích nghi (trung tâm); và đếm số tôm giống. Ảnh của Darryl Jory.
2/ Trạm và thiết bị thuần khí
Việc chuẩn bị thích hợp trạm khí hậu và thiết bị thích nghi là một bước đi quan trọng trong việc giúp tôm giống thích nghi. Nhiều tác giả khác đã xem xét lại chủ đề này và một số điểm trọng tâm được đề cập dưới đây. Trạm thích nghi - bao gồm tất cả các bồn chứa và các hồ chứa nước khác, thiết bị (lưới, xô, máy xi phông và các thiết bị cần thiết khác) phải được làm sạch và khử trùng nhiều lần bằng hóa chất clo hoặc các chất khử trùng khác và được phơi trực tiếp dưới ánh nắng mặt trời.
Không cần quan tâm quá mức các thiết bị chức năng và hiệu chuẩn để theo dõi các thông số về nước (nhiệt độ, độ mặn, độ pH và oxy hòa tan) trước khi tôm giống đến trạm thích nghi. Quá trình chuẩn bị là thời gian để phát hiện ra một thiết bị đo khúc xạ không được hiệu chuẩn đúng hoặc màng dò không ở trong tình trạng tốt chứ không phải trong giai đoạn thích nghi.
Người nuôi phải có các thiết bị dự phòng, đặc biệt đối với các thiết bị quan trọng như bình sục khí (và nguồn điện) và thiết bị đo khúc xạ. Tất cả các nguồn cung cấp phải có sẵn trước khi đưa tôm giống đến ao nuôi, bao gồm cung cấp đầy đủ thức ăn Artemia (các thức ăn thích nghi thương mại có sẵn và được khuyến khích) và / hoặc đông lạnh, cũng như thuốc ngăn cản ammonia, than hoạt tính, bộ đệm và các chất khác.
3/ Quy trình thích nghi chung
Các quy trình thích nghi đã được xuất bản và có sẵn trong nhiều năm, bao gồm: độ mặn tăng / giảm không quá 3 ppt / giờ; mật độ ấu trùng thích hợp: 1.000-5.000 tôm giống / gallon (khoảng 260-1300 ấu trùng / lít); tránh thay đổi nhiệt độ bất thường (hơn 3-4 độ C); duy trì mức oxy hoà tan ở 6-7 ppm.
Có một số ấn bản mới đây đã đánh giá và mô tả các quy trình thích nghi của tôm giống, và hầu hết các trang trại nuôi tôm tự phát triển và thực hiện phiên bản riêng phù hợp với các điều kiện chung, nguồn lực và quy trình quản lý. Khả năng thích nghi tôm giống có thể được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau.
Ví dụ, ở một số trang trại khi sự khác biệt rất nhỏ về độ mặn và nhiệt độ giữa ao và bể cũng như nước mà tôm giống được chuyển đến (> 3-4 ppt, 1-2 độ C) có thể thích nghi đơn giản như đặt các túi nhựa dùng để vận chuyển tôm giống vào ao trong 30-60 phút (sau khi làm các lỗ nhỏ trong túi) và sau đó thả tôm vào, mặc dù phương pháp này không được khuyến cáo.
Sự thích nghi cũng có thể thay đổi (từ trại sản xuất giống đến trang trại) nếu tôm giống được vận chuyển với số lượng lớn trong các thùng chứa lớn, thông qua việc thêm nước từ từ nhằm điều chỉnh yếu tố môi trường theo đặc tính mong muốn (nhiệt độ trong ao, độ mặn, pH) và việc điều chỉnh này được hoàn thành khi đến trang trại nuôi tôm. Hiện nay, hầu hết các trang trại đều có các trạm, bể thích nghi chuyên dụng hoặc sử dụng các bể tạm thời được thiết lập bên cạnh ao. Một số trang trại sẽ có cả hai, hoặc thậm chí các hệ thống nuôi mới hơn đang dần phổ biến để phục vụ cho việc nuôi dưỡng hoặc thuần hóa trước khi thả.
Bể thích nghi vĩnh viễn, hiện đại tại trại nuôi tôm (trái); các hệ thống nuôi mới (trung tâm, bên phải) cũng có thể được sử dụng làm bể thích nghi ngay khi bắt đầu chu trình nuôi, khi tôm giống đến trại nuôi. Ảnh của Darryl Jory.
Có một số biến thể trong quá trình thích nghi, liên quan đến việc giữ tôm giống trong một khoảng thời gian tại bể và từ từ thêm nước từ các ao thả nuôi tôm để cân bằng các thông số khác nhau (chủ yếu là độ mặn và nhiệt độ). Cần chú ý đặc biệt để giảm thiểu tất cả các nguồn căng thẳng. Nồng độ oxy hòa tan phải được duy trì gần bão hòa, và tôm giống phải được cho ăn và theo dõi chặt chẽ mọi lúc.
Artemia sống và đông lạnh, lòng đỏ trứng nấu chín và các thực phẩm khác được sử dụng, nhưng nhìn chung việc sử dụng Artemia sống không được khuyến khích vì có khả năng kích thích hành vi ăn thịt đồng loại ở tôm giống. Mật độ đóng gói phụ thuộc vào tuổi và thời gian vận chuyển, và có thể dao động từ 1.500-3.000 tôm giống / l đối với những con nhỏ hơn (<ấu trùng 8-10) đến 800-1.000 tôm giống trong trường hợp con lớn hơn (>ấu trùng 15) và thời gian vận chuyển trên 12 giờ.
Giảm nhiệt độ nước (đến 18-22 ° C) và việc bổ sung các hợp chất khác nhau để vận chuyển nước (kể cả chất cản ammonia, buffers và carbon hoạt hóa) sẽ làm tăng sự sống sót của tôm giống thông qua quy trình vận chuyển mở rộng. Mật độ thích nghi không được vượt quá 300-500 lít / lít tùy thuộc vào kích cỡ và thời gian thích nghi của tôm.
Độ mặn có lẽ là tham số quan trọng nhất cần xem xét trong thời gian giúp tôm giống thích nghi. Các tác giả đã đề xuất các mức điều chỉnh độ mặn khác nhau để thuần tôm; ví dụ, tăng / giảm không quá 3 ppt mỗi giờ. Đã có những báo cáo thành công trong việc sử dụng phương pháp thích nghi độ mặn trung bình khoảng 18-20 tiếng đối với các trang trại thương mại ở các quốc gia Mỹ Latinh trong ao nuôi thương mại, ở đó mùa mưa có độ mặn từ 0-2 ppt và từ 6-10 ppt trong mùa khô.
Biểu thời gian này bao gồm các thời điểm sau: 20 phút (35 đến 15 ppt), 30 phút (15 đến 10 ppt), 60 phút (10 đến 4 ppt) và 120 phút (4 đến 0 ppt). Các lịch trình được đề nghị này nên được sử dụng làm cơ sở cho việc xây dựng quy trình tại chỗ và điều rất quan trọng cần lưu ý là tỷ lệ thích nghi thực tế sẽ khác nhau tùy thuộc vào chất lượng, điều kiện và tuổi của tôm giống, cũng như mức độ thay đổi tham số cần thiết, đặc biệt đối với độ mặn và nhiệt độ, và cũng phụ thuộc vào sự điều chỉnh tăng hoặc giảm của hai tham số này.
4/ Tôm giống thay đổi sinh lý trong quá trình thích nghi
Môi trường nuôi trồng thủy sản trong các hệ thống nuôi , đặc biệt là bể, ao và mương ngoài trời luôn thay đổi. Những thay đổi đột ngột và dữ dội có thể làm cho vật nuôi không thể thích ứng và tồn tại, hoặc ảnh hưởng xấu đến tốc độ tăng trưởng, sống sót và hiệu suất.
Dấu hiệu căng thẳng thường thấy ở mức hành vi và mô học. Các điều kiện như oxy hòa tan thấp và độ mặn thấp là hai thông số quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động sinh lý và trao đổi chất bình thường ở tôm giống trong giai đoạn thích nghi. Nhiều thay đổi về sinh lý xảy ra trong thời gian thích nghi sau khi thả giống hoặc trước khi thả vào hệ thống nuôi vỗ, vì vậy người quản lý phải nhận thức được những điều quan trọng nhất và mối liên quan giữa chúng.
Dinh dưỡng hợp lý là một khía cạnh quan trọng giúp thích nghi với các điều kiện môi trường thay đổi. Ví dụ, tôm giống được cho ăn hàm lượng HUFA cao (hàm lượng axit béo chưa bão hòa) sẽ chịu được sự thay đổi độ mặn trong quá trình thích nghi và chuyển sang hệ thống nuôi vỗ sau khi thả. Và mức tiêu thụ oxy có thể thay đổi theo sự thay đổi độ mặn.
Thiết lập thùng chứa để vận chuyển tôm từ trại sản xuất giống đến trại nuôi vỗ. Ảnh của Darryl Jory.
5/ Viễn cảnh
Sự thích nghi của tôm giống trước khi thả vào các hệ thống nuôi khác nhau (ao, mương, bể) là một quá trình quan trọng - và thường bị bỏ sót, đôi khi được coi là bước đi trong quá trình nuôi tôm. Việc xem xét quan trọng nhất trong quá trình thích nghi là các thông số nên được thay đổi chậm để tôm giống có cơ hội thích ứng dần dần. Nhìn chung đối với nhiều tham số, tỷ lệ thay đổi quan trọng hơn mức độ thay đổi (trong giới hạn chịu đựng). Cần phải xem xét ảnh hưởng có thể của các hiệu ứng phối hợp, bởi vì thay đổi một tham số (ví dụ, độ mặn nước, nhiệt độ) có thể mang lại sự nhạy cảm khác biệt với các thông số khác (ví dụ, oxy hòa tan, amoniac).
Giảm thiểu căng thẳng phải được ưu tiên hàng đầu trong quá trình thu hoạch tôm giống ở trại sản xuất giống, vận chuyển đến trang trại, và thông qua quá trình thích nghi và nuôi thả, bởi vì tôm bị stress - khi được thả vào môi trường nuôi vỗ sẽ gặp bất lợi hơn khi ở trại giống - có thể ít sống sót hơn, và nếu chúng sống sót có thể mang một khuyết tật không thể vượt qua, dẫn đến giảm sự sống, tăng trưởng, sản xuất và lợi nhuận.
Có thể bạn quan tâm
Cá tra làmặt hàng xuất khẩu và tiêu thụ nội địa quan trọng của ngành thủy sản ĐBSCL. Để cải thiện chất lượng cá tra nuôi hầm, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu, KS. Nguyễn Thị Ngọc Hà (Trung tâm Khuyến Nông tỉnh An Giang) đã thử nghiệm thành công quy trình nuôi cá tra sạch bằng cách sử dụng các chế phẩm vi sinh.
Trong thời gian gần đây, hầu như tất cả các vùng nuôi cá tra ở Đồng bằng sông Cửu Long đều đã xuất hiện những loại bệnh phổ biến như xuất huyết, bệnh gan-thận mủ, bệnh gạo, trắng mang, trắng gan đã gây tổn thất rất lớn cho nghề nuôi.
Cá tra đánh bắt ngoài tự nhiên tại các vùng nước sạch đều có thịt màu trắng, trong khi cá tra nuôi hầm, bè thịt cá thường bị vàng, nên hiệu quả xuất khẩu không cao.
Vì sao cá tra nuôi có thịt vàng? Có rất nhiều yếu tố chủ quan và khách quan tác động trong suốt quá trình nuôi. Nhìn chung, chúng tôi thấy có các nguyên nhân sau:
Từ đầu tháng 8 đến tháng 11 hàng năm lũ về ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu long sẽ cuốn trôi phèn, mang theo nhiều vật chất hữu cơ phân huỷ, cuốn theo các mầm bệnh từ thượng nguồn đổ về, cùng với độc tố thuốc bảo vệ thực vật từ nội đồng ra kênh rạch, hậu quả sẽ làm thay đổi điều kiện môi trường sống của các loài thuỷ sản nuôi.