Quản lý và phát triển nhãn hiệu sản phẩm vùng miền
Chưa phát huy giá trị
Quảng Nam có khoảng 100 sản phẩm đặc trưng và sản phẩm làng nghề truyền thống mang đặc thù vùng miền, nhưng tới nay chỉ mới 26 sản phẩm được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp dưới các hình thức: chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu chứng nhận và nhãn hiệu tập thể (NHTT).
Tuy nhiên, theo bà Hà Thị Ánh Tuyết, Phó Trưởng phòng Quản lý Sở hữu trí tuệ & an toàn bức xạ và hạt nhân (Sở KH-CN), trên thực tế, 26 sản phẩm đã được bảo hộ này, nhiều NHTT không được quan tâm đầu tư, hỗ trợ, phát huy giá trị, nhiều nhãn hiệu không phát huy hiệu quả trong thực tế.
Nhiều sản phẩm đặc trưng chỉ được tiêu thụ nhỏ lẻ trong vùng biết tới, song thương hiệu lại không có mặt rộng rãi trên thị trường; sản phẩm khi đưa ra thị trường không gắn nhãn mác, bao bì, logo, tem chứng nhận nên giá trị không cao.
Ví như, tại làng hương Phú Lộc (Đại Hòa, Đại Lộc), sản phẩm làng nghề dù đã được bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa, song đến nay người dân làng nghề vẫn “bỏ quên” việc sử dụng nhãn hiệu của chính làng nghề mình để gắn lên sản phẩm mà chỉ sử dụng nhãn mác trôi nổi trên thị trường.
Hay như, nhiều nhãn hiệu lại bị chính chủ sở hữu lãng quên, ví như bưởi Đại Bình (Quế Trung, Nông Sơn), tiêu Tiên Phước (Tiên Phước), rau Bàu Tròn (Đại An, Đại Lộc), nước mắm Cửa Khe (Bình Dương, Thăng Bình)…
Cùng với sự ra đời của nhà sơ chế rau củ quả Bàu Tròn, việc gắn nhãn mác, logo, thiết kế bao bì khiến tăng thêm giá trị cho sản phẩm.
Thực tế, NHTT “Rau Bàu Tròn” đã được Cục Sở hữu trí tuệ (SHTT) cấp giấy chứng nhận bảo hộ số: 151308 ngày 20.8.2010, Bưởi Đại Bình được bảo hộ nhãn hiệu tập thể số: 126173 ngày 2.9.2009, song nhiều năm, các chủ sở hữu hầu như không sử dụng trong sản xuất, tiêu thụ, lại còn làm thất lạc giấy chứng nhận đăng ký bảo hộ.
Tiêu Tiên Phước được cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu số 125322 ngày 20.5.2009, song Hợp tác xã (HTX) Dịch vụ sản xuất chế biến nông lâm Cẩm Hà, đơn vị được giao quyền quản lý nhãn hiệu lại không phát huy giá trị nhãn hiệu được bảo hộ suốt nhiều năm qua.
“Qua khảo sát, 100% hộ tham gia sản xuất nước mắm Cửa Khe, tiêu Tiên Phước, bưởi Đại Bình, rau Bàu Tròn đều sản xuất ở dạng nhỏ lẻ, phần đông chưa nhận biết, nhận thức về nhãn hiệu hàng hóa.
Rất ít hộ sử dụng nhãn mác, bao bì, tem gắn lên sản phẩm.
Kênh giao dịch qua truyền miệng chứ chưa qua hợp đồng ký kết hay được đa dạng hóa bằng nhiều hình thức như bán hàng qua mạng, qua truyền hình” - bà Tuyết nói.
Vận hành mô hình quản lý
Theo bà Hà Thị Ánh Tuyết, từ kết quả đề tài “Quản lý và phát triển nhãn hiệu tập thể một số sản phẩm đặc trưng của tỉnh Quảng Nam” (đã được Sở KH-CN nghiệm thu), mô hình quản lý NHTT cho 4 sản phẩm được xây dựng tại các địa phương.
Dưới sự hỗ trợ của Sở KH-CN, 2 đơn vị HTX Dịch vụ sản xuất Nông lâm Cẩm Hà (Tiên Phước) và HTX Quế Trung (Nông Sơn) đã chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp cho 2 đơn vị được chọn giao quyền quản lý hiện nay trên địa bàn là HTX Nhật Linh và Hội Nông dân xã Quế Trung.
Hiện, Hội Nông dân xã Quế Trung đã trao quyền sử dụng NHTT bưởi Đại Bình cho 10 thành viên là những người tham gia sản xuất; UBND xã Bình Dương cũng tiến hành trao quyền cho 11 thành viên tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh nước mắm.
Tương tự, HTX Đại An trao quyền cho 43 hộ tham gia sản xuất tại Bàu Tròn; HTX Nhật Linh cũng trao quyền cho 5 hộ dân sản xuất, kinh doanh tiêu Tiên Phước.
Bà Hà Thị Ánh Tuyết cho biết, ngoài được hỗ trợ chuyển giao, xác lập lại quyền sở hữu công nghiệp, các tổ hợp tác, người dân tại các địa phương còn được hỗ trợ xây dựng hệ thống nhãn mác, bao bì, logo, tem chống giả, mã vạch cho 4 sản phẩm đặc trưng.
Sản phẩm bà con sản xuất được đã được hỗ trợ đưa vào quảng bá tại một số siêu thị và bước đầu được người tiêu dùng đánh giá cao.
Qua tiếp thị, quảng bá, một số sản phẩm được đặt hàng với số lượng nhiều khiến bà con an tâm bám nghề.
“Đây là những mô hình điểm, thời gian tới, chúng tôi sẽ nhân rộng mô hình quản lý và phát triển NHTT này đối với những nhóm sản phẩm còn lại đã được trao quyền sở hữu công nghiệp nhưng chưa được phát huy trên thực tế, góp phần nâng cao uy tín, giá trị của thương hiệu” - bà Tuyết nói.
Ông Nguyễn Thanh Hải - Trưởng ban quản lý Làng nghề nước mắm Cửa Khe cho hay, từ khi mô hình quản lý NHTT được vận hành, 11 thành viên tại làng nghề đã được ban quản lý trao quyền sử dụng nhãn hiệu.
Họ phải có nghĩa vụ tuân thủ quy trình sản xuất, chế biến và bảo quản nước mắm do ban quản lý xây dựng dựa trên thực tiễn sản xuất tại làng nghề truyền thống.
Cùng với đó, sản phẩm khi đưa đi tiêu thụ phải được gắn nhãn mác, đóng bao bì, chai lọ phải có mã vạch, logo thương hiệu.
Có thể bạn quan tâm
“Mặc dù nuôi mật độ 6-7 con/m2 nhưng chúng ta không nên chủ quan xem nhẹ việc quản lý môi trường ao nuôi, nếu không khéo để đáy ao ô nhiễm thì sẽ gây bất lợi cho tôm, dẫn đến vụ nuôi không thành công”, ông Nguyễn Bé Năm, ấp Phú Thạnh, xã Phú Hưng, huyện Cái Nước (Cà Mau), đúc kết kinh nghiệm sau 3 vụ nuôi tôm quảng canh cải tiến (QCCT).
Những loại ao sâu nước, kín gió, nhiều bèo (bèo tây, bèo tấm, bèo hoa dâu, bèo Nhật), ao tù, ao nhiều mùn bã hữu cơ ít được thay nước, mật độ thả cá dày thường là ao bị thiếu oxy. Kinh nghiệm kiểm tra sự thiếu hụt oxy trong môi trường nước nuôi cá: Sáng sớm đi thăm cá, thấy cá nổi đầu nhẹ tức là nghe tiếng vỗ tay, chúng lặn đi được là tốt; ngược lại khi nghe tiếng vỗ tay chúng vẫn nổi đầu đến 9-10 giờ sáng là ao thiếu oxy. Để tăng lượng oxy cho ao cần chú ý một số các yếu tố sau:
Theo tính toán của các nhà chuyên môn, chi phí thức ăn cho nuôi tôm thường chiếm trên 65-75% giá thành sản phẩm. Nhưng hiện tại, giá thức ăn cho tôm sú đến tay người nuôi giá cao ngất: từ 80.000-120.000 đồng/bao (25kg) tuỳ loại, đó là thanh toán tiền mặt, còn nợ đến thu hoạch giá còn tính cao hơn nhiều.
Từ khi mới bắt đầu nuôi tôm, các chuyên gia ngành thuỷ sản khuyến cáo, quy hoạch nuôi tôm thẻ chân trắng phải nuôi riêng biệt với tôm sú, xây dựng hệ thống thuỷ lợi, nguồn nước khép kín, tuyệt đối không để lẫn lộn giữa nguồn nước nuôi tôm sú và tôm thẻ chân trắng.
Vấn đề đau đầu nhất hiện nay với các tỉnh ven biển miền Trung từ TT- Huế đến Ninh Thuận là sản lượng khai thác thủy sản giảm sút, tàu nằm bờ chiếm tới 40 – 60% do giá nhiên liệu tăng cao, tình hình nuôi trồng thủy sản không thuận, đặc biệt tình trạng tôm bị bệnh chết khá nhiều, ảnh hưởng đến đời sống ngư dân. Theo số liệu của Sở NN-PTNT các tỉnh trong khu vực