Protein mới giúp tăng tỷ lệ sống của tôm

Một chế độ ăn có chứa một protein đơn bào mới được phát triển bởi KnipBio đã được chứng minh là làm tăng ít nhất 30% tỉ lệ sống của tôm giống tôm chân trắng Thái Bình Dương.
Protein mới giúp tăng tỷ lệ sống của tôm. Ảnh minh họa
Năm thử nghiệm cho thấy thức ăn nuôi tôm bao gồm bột KnipBio Meal (KBM) của công ty Massachusetts giúp tỷ lệ tôm sống cao hơn đáng kể so với tôm ăn chế độ ăn bột cá thương mại tiêu chuẩn.
Cuộc thử nghiệm đầu tiên được tiến hành tại Đại học Roger Williams. Trong thử nghiệm, tôm được tách thành nhóm đối chứng ăn một khẩu phần ăn thương phẩm có chứa bột cá menhaden và một nhóm thực nghiệm ăn một chế độ ăn mà một nửa bột cá đã được thay thế bằng KBM. Sau 42 ngày, các nhà nghiên cứu đã quan sát thấy tỷ lệ chết giảm 35% ở tôm thí nghiệm so với nhóm đối chứng.
Hai thử nghiệm thức ăn bổ sung đã được tiến hành tại một trường đại học Hoa Kỳ được công nhận trong nghiên cứu nuôi trồng thủy sản nước ấm. Nhóm thứ nhất bao gồm một nhóm đối chứng và hai nhóm thực nghiệm được cho ăn các tỷ lệ khác nhau của bột cá và KBM. Nhóm đối chứng tiếp tục được ăn chế độ ăn với bột cá, nhóm thử nghiệm đầu tiên được cho ăn chế độ ăn trong đó 50% bột cá được thay thế bởi KBM, và nhóm thử nghiệm thứ hai ăn một khẩu phần ăn với bột cá được thay thế bằng KBM. Sau 42 ngày, cả hai nhóm thử nghiệm cho thấy tỷ lệ sống tăng 30% so với chế độ ăn thương mại.
Thử nghiệm khác bao gồm một nhóm đối chứng và bốn nhóm thử nghiệm được cho ăn một khẩu phần có tỷ lệ bột cá và KBM khác nhau. Sau sáu tuần, tất cả bốn quần thể thử nghiệm đều có tỷ lệ sống cao hơn đáng kể so với nhóm đối chứng. Một số nhóm thử nghiệm cho thấy sự gia tăng khả năng sống từ 40% đến 100% so với nhóm đối chứng.
Trong khi đó, hai thử nghiệm về khả năng sống của tôm được tiến hành tại một cơ sở nghiên cứu khoa học ở Châu Á với chuyên môn hàng đầu về những thách thức về bệnh tôm. Các thí nghiệm được thiết kế để kiểm tra xem liệu chế độ ăn có chứa KBM có thể cải thiện khả năng sống trong một quần thể tôm đã bị phơi nhiễm với Hội chứng chết sớm (EMS, hay còn gọi là Hội Chứng hoại tử gan tụy cấp). Tôm trong quần thể thử nghiệm được cho ăn số lượng KBM khác nhau như là một chất thay thế cho bột cá hoặc đậu nành tinh lọc.
Sau 14 ngày tôm tiếp xúc với mầm bệnh gây ra EMS là Vibrio parahaemolyticus. Vào cuối đợt thử nghiệm, tôm đã nuôi bằng KBM có tỷ lệ sống tăng 30 - 46% so với các nhóm đối chứng có chế độ ăn thương mại tiêu chuẩn. Trong tất cả các nhóm thử nghiệm, tôm nuôi bằng thức ăn chứa KBM luôn đạt kết quả tốt hơn so với nhóm đối chứng trong phân tích mô học về bệnh lý học sử dụng hệ thống phân loại G.
Larry Feinberg, Giám đốc điều hành của KnipBio, cho biết: “Mặc dù những thử nghiệm này là sơ bộ, chúng tôi rất hài lòng với kết quả chúng tôi đang nhìn thấy. Kết hợp với nhau, những thử nghiệm này cho thấy chế độ ăn có chứa KnipBio Meal mang lại lợi ích đáng kể so với các công thức chế độ ăn thương mại tiêu chuẩn trong điều kiện bình thường cũng như ở tôm bị bệnh. Chúng tôi dự định tiến hành thêm nhiều thử nghiệm bổ sung để xác nhận những phát hiện này, để hiểu được cơ chế hoạt động và để xác định tỷ lệ thay thế KBM tối ưu nhằm cải thiện khả năng sống của tôm và tối đa hoá việc chuyển đổi thức ăn”.
“Chúng tôi tin rằng nuôi trồng thủy sản mang lại một cơ hội thị trường đáng kể cho KnipBio Meal. Hơn 20 tỷ USD tôm nuôi được bán ra mỗi năm trên khắp thế giới và thị trường đang tăng trưởng đáng kể. KnipBio Meal cung cấp một cách có trách nhiệm để hỗ trợ thị trường này bằng một nguồn protein thay thế bền vững mà không phụ thuộc vào việc làm suy giảm nguồn cá tự nhiên làm đầu vào, có khả năng cải thiện sản lượng và lợi nhuận cho các nhà nuôi trồng thủy sản”.
Có thể bạn quan tâm

Các hệ thống nuôi bioflocs - BFT (Công nghệ bioflocs) có thể là nguồn thức ăn tươi sống trong giai đoạn nuôi thương phẩm của sản xuất tôm sú, tôm thẻ

Một bệnh tôm mới xuất hiện được gọi là hội chứng tử vong sớm (EMS) hoặc hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính (AHPNS) đã được báo cáo là gây thiệt hại đáng kể giữa các trang trại nuôi tôm ở Trung Quốc (2009), Việt Nam (2010) và Malaysia (2011).

Nuôi trồng thủy sản là nuôi và thu hoạch các sinh vật thủy sản trong một môi trường có kiểm soát. Ngành nuôi trồng thủy sản hiện nay là lĩnh vực thức ăn chăn nuôi phát triển nhanh nhất, với khoảng 46% tất cả các loài cá được tiêu thụ trên toàn thế giới trong năm 2012 được sản xuất tại các cơ sở nuôi trồng thủy sản.

Đồng đã được sử dụng trong nhiều năm như một công cụ hóa học ở ao nuôi nước ngọt và các hoạt động nuôi trồng thủy sản. Nó là chất diệt tảo hiệu quả và điều trị ký sinh trùng. Vấn đề với việc sử dụng đồng là có một đường mỏng ngăn không cho quá liều, có thể giết chết cá đối với điều trị hiệu quả. Tài liệu này được thiết kế để giải thích khi nào đồng được sử dụng, sử dụng nó như thế nào, và một số biện pháp phòng ngừa trước khi sử dụng nó.

Bệnh EMS/AHPND được phát hiện đầu tiên vào năm 2010 tại Trung Quốc, nguyên nhân được xác định là do vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus