Trang chủ / Hải sản / Tôm thẻ chân trắng

Protein mới giúp tăng tỷ lệ sống của tôm

Protein mới giúp tăng tỷ lệ sống của tôm
Tác giả: HNN (Theo thefishsite)
Ngày đăng: 25/06/2018

Một chế độ ăn có chứa một protein đơn bào mới được phát triển bởi KnipBio đã được chứng minh là làm tăng ít nhất 30% tỉ lệ sống của tôm giống tôm chân trắng Thái Bình Dương.

Protein mới giúp tăng tỷ lệ sống của tôm. Ảnh minh họa

Năm thử nghiệm cho thấy thức ăn nuôi tôm bao gồm bột KnipBio Meal (KBM) của công ty Massachusetts giúp tỷ lệ tôm sống cao hơn đáng kể so với tôm ăn chế độ ăn bột cá thương mại tiêu chuẩn.

Cuộc thử nghiệm đầu tiên được tiến hành tại Đại học Roger Williams. Trong thử nghiệm, tôm được tách thành nhóm đối chứng ăn một khẩu phần ăn thương phẩm có chứa bột cá menhaden và một nhóm thực nghiệm ăn một chế độ ăn mà một nửa bột cá đã được thay thế bằng KBM. Sau 42 ngày, các nhà nghiên cứu đã quan sát thấy tỷ lệ chết giảm 35% ở tôm thí nghiệm so với nhóm đối chứng.

Hai thử nghiệm thức ăn bổ sung đã được tiến hành tại một trường đại học Hoa Kỳ được công nhận trong nghiên cứu nuôi trồng thủy sản nước ấm. Nhóm thứ nhất bao gồm một nhóm đối chứng và hai nhóm thực nghiệm được cho ăn các tỷ lệ khác nhau của bột cá và KBM. Nhóm đối chứng tiếp tục được ăn chế độ ăn với bột cá, nhóm thử nghiệm đầu tiên được cho ăn chế độ ăn trong đó 50% bột cá được thay thế bởi KBM, và nhóm thử nghiệm thứ hai ăn một khẩu phần ăn với bột cá được thay thế bằng KBM. Sau 42 ngày, cả hai nhóm thử nghiệm cho thấy tỷ lệ sống tăng 30% so với chế độ ăn thương mại.

Thử nghiệm khác bao gồm một nhóm đối chứng và bốn nhóm thử nghiệm được cho ăn một khẩu phần có tỷ lệ bột cá và KBM khác nhau. Sau sáu tuần, tất cả bốn quần thể thử nghiệm đều có tỷ lệ sống cao hơn đáng kể so với nhóm đối chứng. Một số nhóm thử nghiệm cho thấy sự gia tăng khả năng sống từ 40% đến 100% so với nhóm đối chứng.

Trong khi đó, hai thử nghiệm về khả năng sống của tôm được tiến hành tại một cơ sở nghiên cứu khoa học ở Châu Á với chuyên môn hàng đầu về những thách thức về bệnh tôm. Các thí nghiệm được thiết kế để kiểm tra xem liệu chế độ ăn có chứa KBM có thể cải thiện khả năng sống trong một quần thể tôm đã bị phơi nhiễm với Hội chứng chết sớm (EMS, hay còn gọi là Hội Chứng hoại tử gan tụy cấp). Tôm trong quần thể thử nghiệm được cho ăn số lượng KBM khác nhau như là một chất thay thế cho bột cá hoặc đậu nành tinh lọc.

Sau 14 ngày tôm tiếp xúc với mầm bệnh gây ra EMS là Vibrio parahaemolyticus. Vào cuối đợt thử nghiệm, tôm đã nuôi bằng KBM có tỷ lệ sống tăng 30 - 46% so với các nhóm đối chứng có chế độ ăn thương mại tiêu chuẩn. Trong tất cả các nhóm thử nghiệm, tôm nuôi bằng thức ăn chứa KBM luôn đạt kết quả tốt hơn so với nhóm đối chứng trong phân tích mô học về bệnh lý học sử dụng hệ thống phân loại G.

Larry Feinberg, Giám đốc điều hành của KnipBio, cho biết: “Mặc dù những thử nghiệm này là sơ bộ, chúng tôi rất hài lòng với kết quả chúng tôi đang nhìn thấy. Kết hợp với nhau, những thử nghiệm này cho thấy chế độ ăn có chứa KnipBio Meal mang lại lợi ích đáng kể so với các công thức chế độ ăn thương mại tiêu chuẩn trong điều kiện bình thường cũng như ở tôm bị bệnh. Chúng tôi dự định tiến hành thêm nhiều thử nghiệm bổ sung để xác nhận những phát hiện này, để hiểu được cơ chế hoạt động và để xác định tỷ lệ thay thế KBM tối ưu nhằm cải thiện khả năng sống của tôm và tối đa hoá việc chuyển đổi thức ăn”.

“Chúng tôi tin rằng nuôi trồng thủy sản mang lại một cơ hội thị trường đáng kể cho KnipBio Meal. Hơn 20 tỷ USD tôm nuôi được bán ra mỗi năm trên khắp thế giới và thị trường đang tăng trưởng đáng kể. KnipBio Meal cung cấp một cách có trách nhiệm để hỗ trợ thị trường này bằng một nguồn protein thay thế bền vững mà không phụ thuộc vào việc làm suy giảm nguồn cá tự nhiên làm đầu vào, có khả năng cải thiện sản lượng và lợi nhuận cho các nhà nuôi trồng thủy sản”.


Có thể bạn quan tâm

Nuôi ếch trong đăng hay đăng quầng Nuôi ếch trong đăng hay đăng quầng

2.1/- Nuôi trong giai (vèo): - Giai có kích thước 6 - 50 mét vuông (2x3, 4x5, 5x10m), cao 1 - 1,2 m, làm bằng lưới nylon may kín 5 mặt và phía trên có nắp đậy để tránh ếch nhảy ra ngoài và đề phòng địch hại.

30/06/2015
Kỹ thuật nuôi cá điêu hồng Kỹ thuật nuôi cá điêu hồng

1. Ao nuôi: - Diện tích ao nuôi, từ 500 mét vuông trở lên, sâu 1.2 – 1.5 m, bờ phải cao so với mực nước cao nhất trong năm là 0,3 – 0,5 m. - Nguồn nước, phải có hệ thống cấp và thoát nước chủ động, nguồn nước phải sạch không ô nhiễm nước thải công nghiệp, sinh hoạt, ít bị nhiễm phèn.

30/06/2015
Kỹ thuật nuôi ếch trong ao đất Kỹ thuật nuôi ếch trong ao đất

I/- NUÔI ẾCH TRONG AO ĐẤT 1.1/- Chuẩn bị ao : - Ao diện tích từ 30 - 300 mét vuông (4 x 8m; 5 x10m, 10 x 20 m…), ao không quá lớn sẽ khó quản lý. Có thể trãi bạt nylon nếu ao không giữ nước. Thông thường mô hình này được thiết kế theo dạng ao nổi hoặc nửa nổi nữa chìm

30/06/2015
Kỹ thuật nuôi tom sú thâm canh và bán thâm canh Kỹ thuật nuôi tom sú thâm canh và bán thâm canh

1/Chọn Lựa Ao Và Mùa Vụ Nuôi: - Thiết kế ao lắng chiếm 30% diện tích so với ao nuôi - Chọn ao nuôi có diện tích 3000-5000 m2,dễ chăm sóc quản lí.

30/06/2015
Hiện tượng chậm lột vỏ trên tôm Hiện tượng chậm lột vỏ trên tôm

Các lòai giáp xác nói chung,tôm nói riêng,trong chu kỳ sống, để tăng trưởng, gia tăng trọng lượng và kích thước cần trải qua qúa trình lột xác nhiều lần. Qúa trình này,là sự thay đổi, bỏ lớp vỏ cũ thay bằng lớp vỏ mới. Tùy theo kích thước, trọng lượng, tuổi và một số điều kiện về môi trường mà tôm lột xác ít hay nhiều lần trong tháng, thông thường là 2 lần trong tháng.

30/06/2015