Phòng Ngừa Dịch Hại Và Chọn Giống Lúa Cho Vụ Lúa Hè Thu

Phòng ngừa dịch hại
Bên cạnh đối phó khô hạn bằng cách vận động nông dân chuyển đổi, luân canh cây màu trên nền lúa, Cần Thơ chủ trương bố trí mùa vụ theo khung thời vụ từng địa phương có kết hợp biện pháp xuống giống đồng loạt, né rầy, tập trung cho từng vùng, từng cánh đồng; lịch gieo sạ lúa HT bắt đầu đợt 1 từ 27-3 đến 3-4-2010.
Đợt 2 từ 25-4 đến 2-5-2010, sau khi gieo sạ theo dõi diễn biến rầy thành trùng di trú, thực hiện tốt biện pháp dùng nước che chắn cây lúa giai đoạn dưới 20 ngày tuổi, hạn chế khả năng đẻ trứng và truyền bệnh của RN.
Trường hợp rầy vào đèn không đều, không có đỉnh cao thì thời vụ chủ yếu dựa vào thủy văn nhưng phải gom vụ (gieo sạ tập trung) không kéo dài, không để cùng một cánh đồng có nhiều trà lúa khác nhau và phải áp dụng các biện pháp IPM, “3 giảm 3 tăng”, “1 phải 5 giảm”, dùng biện pháp che chắn rầy bằng nước, phun xịt thuốc BVTV theo nguyên tắc 4 đúng, tiêu hủy nguồn bệnh.
Mặt khác, nhằm hạn chế chi phí sản xuất tăng lên trong vụ HT, các cán bộ bảo vệ thực vật khuyến cáo một số giải pháp kỹ thuật như thực hiện vệ sinh đồng ruộng. Trên đất làm lúa XH hay HT sớm cần lưu ý xử lý rơm rạ trước khi xuống giống để tránh hiện tượng ngộ độc hữu cơ cho cây lúa.
Đây cũng là biện pháp đơn giản nhưng có hiệu quả để cắt nguồn sâu bệnh để nông dân gieo sạ cho vụ tiếp theo. Trong khâu làm đất, cày bừa trục kỹ, tu sửa bờ bọng để có thể chủ động được nước khi vào vụ, đặc biệt là chủ động thực hiện biện pháp dùng nước che chắn lúa non.
Cách bón phân nên bón lót phân lân, bón phân đợt 1 sớm từ 7-10 ngày sau khi sạ, tăng cường bón phân lân, kali để kích thích bộ rễ phát triển tốt, đẻ nhánh sớm, tạo cây lúa khỏe ngay từ đầu vụ, tăng cường khả năng chống chịu với điều kiện bất lợi của môi trường, hạn chế độ độc hữu cơ, hạ phèn. Giữ mực nước trong ruộng khi bón phân và phun thuốc trừ cỏ để tránh thất thoát phân bón và hạn chế tình trạng ngộ độc lúa của một vài loại thuốc trừ cỏ để tăng hiệu quả sử dụng.
Nông dân nên hạn chế tối đa việc phun thuốc trừ sâu sớm như (bù lạch, RN) ở giai đoạn 40 ngày tuổi. Đặc biệt là nhóm thuốc trừ sâu gốc lân hữu cơ hoặc nhóm lân hữu cơ kết hợp cúc tổng hợp, vì dễ gây hiện tượng bộc phát rầy ở giai đoạn lúa làm đòng đến trổ, rất khó phun xịt thuốc có hiệu quả.
Trên lúa XH giai đoạn 7 đến 25 ngày sau sạ khi phát triển RN di trú xâm nhiễm vào ruộng cần vận động nông dân tích cực bơm nước ngập chảng ba cây lúa, che chắn hạn chế khả năng đẻ trứng, chích hút truyền bệnh VL, LXL lúa. Vào giai đoạn cuối vụ, cần quan tâm lưu ý các đối tượng dịch hại như: bù lạch, RN, bệnh đốm vằn, bệnh đạo ôn lá, cổ bông; các bệnh cháy bìa lá và bệnh lem lép hạt.
Chọn giống lúa
Ngành nông nghiệp khuyến cáo nông dân hạn chế gieo sạ giống lúa IR 50404 không vượt quá 15% trong cơ cấu giống lúa; sử dụng các giống lúa HT với các giống chủ lực như: OM2517, VND 95-20,OMCS2000, OM4900, OM6162, Jasmine 85... Giống bổ sung: OM1900, OM4988, OM2717, IR64, VD20, OM2395, OM6073 và giống lúa triển vọng: OM 4088, OM 6377, OM 4092, OM 6377, OM 6035, OM 4668...
Ở các huyện vùng ven TP Cần Thơ, tuy có điều kiện thuận lợi cận kề Viện lúa ĐBSCL, Trường Đại học Cần Thơ, Trung tâm giống... thế nhưng nhiều năm qua nông dân vẫn duy trì sử dụng giống lúa IR 50404 bất chấp khuyến cáo địa phương. Riêng trong vụ ĐX vừa qua ở quận Ô Môn và huyện Phong Điền mỗi nơi làm lúa IR 50404 chiếm hơn 55%.
Chỉ vì giống lúa này dễ canh tác, ít chi phí, song tình trạng thường gặp lúc thị trường bất lợi lập tức loại lúa này rớt giá nhanh nhất. Đó là điều nông dân cần lưu ý. Sở NN&PTNT TP Cần Thơ tính toán, giá thành lúa IR 50404 vụ ĐX vừa qua 2.550-2.750đ/kg (chưa tính lãi vay ngân hàng và tiền thuê đất), đó là nhờ lúa vụ này trúng mùa. Còn vụ HT nếu tiếp tục dùng giống lúa này thì phẩm chất gạo xấu hơn vụ ĐX, độ bạc bụng nhiều, khó tiêu thụ.
Vì vậy, trong cơ cấu giống lúa cần chú ý đến phản ứng kháng RN, bệnh VL-LXL. Mỗi vùng nên bố trí 5 giống lúa chủ lực, nhưng một giống chủ lực không chiếm quá lớn hơn 20%. Ngoài ra, cần lưu ý thêm 3-4 giống lúa bổ sung và một số giống lúa triển vọng.
Đối với giống lúa nhiễm rầy diện tích vùng lúa gieo trồng không quá 10%. Điều cần lưu ý giảm lượng giống gieo sạ, sạ lúa thưa để giảm áp lực sâu bệnh, giảm đổ ngã. Lượng giống sạ lan tốt nhất 100-120kg/ha, sạ hàng 80kg/ha.
Có thể bạn quan tâm

Cỏ dại có rất nhiều loài với nhiều đặc tính rất khác nhau, tuy nhiên chúng vẫn có những đặc điểm giống nhau. Dựa vào những đặc tính này, chúng ta có thể phân loại cỏ dại theo nhiều cách (theo chu kỳ sinh trưởng, theo hình thái, theo đặc điểm thực vật)

Trong chiến lược chọn lọc và phát triển các giống lúa cực ngắn ngày có chất lượng cao, đặc tính gạo thơm dẻo của giống là một trong những quan tâm hàng đầu của nhà khoa học, luôn đi kèm song song với chọn lọc năng suất và tính kháng sâu bệnh

Bệnh lúa von còn gọi là bệnh mạ đực, bệnh thối gốc (Foot-rot), hay bệnh vươn lóng (elongation disease). Tiếng Nhật gọi là bệnh bakanae. Do nấm Fusarium moniliforme-Gibberella fujikuroi. Bệnh có thể xuất hiện và gây hại từ khi cây lúa còn ở giai đoạn mạ cho đến lúc thu họach

Hạt giống cần phơi lại 6- 8 giờ trong nắng nhẹ (không phơi trực tiếp trên sân gạch hay sân xi măng). Phơi lại có tác dụng làm cho hạt hút nước nhanh, xúc tiến hoạt động của hệ thống men, tăng khả năng nảy mầm. Ngâm hạt vào nước lạnh 24 giờ, sau đó đưa vào nước nóng 45- 470c trong 5 phút và cuối cùng là nước nóng 54- 550c trong 10 phút

Bệnh vàng lùn do vi rút Rice Grassy Stunt Virus (RGSV) gây ra. Virut này xâm nhập vào cây lúa và gây bệnh thông qua môi giới là Rầy nâu (Nilaparvata lugens). Bệnh được phát hiện đầu tiên ở vùng Khu 4 cũ và sau này lây lan ra khắp các tỉnh trong cả nước, nhưng gây hại chủ yếu tại các tỉnh miền Trung và Đồng bằng sông Cửu long