Phòng bệnh hoại tử thần kinh trên cá mú lồng
Virus gây bệnh hoại tử thần kinh (VNN) đã lan rộng ở khắp nơi trên thế giới với số lượng loài cá biển cảm nhiễm ngày một gia tăng (Munday và Nakai 1997). Cá nhiễm virus này có biểu hiện bất ổn về thần kinh như bơi bất thường, màu sắc cơ thể chuyển sang trắng xám.
Nguyên nhân
Bệnh VNN do virus thuộc giống Betanodavirus, Nodaviridae gây ra. Virus có dạng hình cầu, đường kính 26 – 32 nm. Virus ký sinh trong tế bào chất của tế bào thần kinh trong não và trong võng mạc mắt.
Triệu chứng
Dấu hiệu bệnh lý điển hình của cá nhiễm VNN là các biểu hiện thần kinh như bơi lội không bình thường (bơi vòng tròn, bơi ngửa, bơi hỗn loạn không định hướng…), bỏ ăn, da tối màu, trương bóng hơi và tỷ lệ chết lớn. Giai đoạn cấp tính thường xuất hiện tại các trại ương giống ấu trùng (từ 10 – 25 ngày tuổi). Cá giống bỏ ăn, chết rải rác, bơi không bình thường, bơi lội mạnh không định hướng, đầu lao xuống dưới. Cá chết và hấp hối hầu hết bóng hơi trương phồng, có sự xung huyết trong. Cá bệnh hoạt động yếu, đầu nổi trên mặt nước hoặc nằm dưới đáy bể hoặc đáy lồng. Triệu chứng tăng dần khi cả quần đàn nhiễm bệnh. Cá chết sau khoảng từ 3 – 5 ngày có dấu hiệu bệnh. Cá chết mổ khám thấy tổ chức não và mắt xuất hiện nhiều không bào màu trắng và xám, đường kính 5 – 10 μm.
Đối với cá nuôi thương phẩm trong lồng, cá lớn (trọng lượng >150 g) khi bị bệnh VNN có ít triệu chứng hơn và tỷ lệ chết giảm. Cá thường chuyển màu đen và bơi chậm chạp với bóng hơi trương phồng và có thể hoặc không có vết bệnh ở đầu. Giải phẫu cơ quan nội tạng bình thường và ruột không có thức ăn.
Đặc điểm
Ở nước ta, bệnh thường xảy ra từ tháng 5 – 10, đặc biệt khi mưa nhiều. Nhiệt độ thích hợp bệnh phát triển 25 – 30 độ C. Virus gây bệnh VNN ngoài lây truyền theo chiều dọc (từ mẹ sang con) còn có thể lây truyền theo trục ngang như qua dòng nước, lây truyền từ cá thể bị bệnh sang cá thể khỏe mạnh trong cùng một bể, chúng có thể lây lan qua các dụng cụ vận chuyển cá và các sản phẩm từ cá bị nhiễm virus từ nơi này đến nơi khác.
Phòng, trị bệnh
Bệnh do virus gây ra, hiện chưa có biện pháp điều trị đặc hiệu. Vì vậy, cần áp dụng các biện pháp phòng bệnh tổng hợp để hạn chế sự xâm nhập của tác nhân gây bệnh.
Đảm bảo chất lượng khi cá giống thả ra lồng. Cá giống trước khi đưa vào lồng nuôi cần được kiểm tra và xác định là không nhiễm mầm bệnh nguy hiểm. Trong khu vực nuôi cá cần hạn chế chó, mèo và người không làm nhiệm vụ qua lại để tránh sự xâm nhập của các sinh vật mang mầm bệnh vào trong hệ thống nuôi.
Đảm bảo chế độ ăn cho cá (chất lượng, số lượng). Nâng cao sức đề kháng cho cá thông qua việc cung cấp đủ lượng thức ăn cần tính theo trọng lượng cá, chủng loại thức ăn phù hợp với nhu cầu dinh dưỡng của cá ở từng giai đoạn nuôi khác nhau. Chất lượng thức ăn tốt không bị nấm mốc, không chứa các độc tố, thành phần dinh dưỡng phù hợp theo lứa tuổi và theo loài nuôi. Tránh cho ăn quá mức gây dư thừa thức ăn làm tăng chi phí sản xuất và dễ gây ô nhiễm môi trường.
Căn cứ vào diện tích và cỡ cá thả để tính mật độ thả phù hợp. Không nên nuôi quá thưa làm lãng phí diện tích lồng nuôi. Tránh mật độ nuôi quá dày dẫn đến cạnh tranh về dinh dưỡng, dễ phát sinh và lây lan dịch bệnh khi nuôi.
Các dụng cụ sử dụng trong hệ thống nuôi cần được khử trùng thông qua giặt sạch, phơi nắng. Cần tránh dùng chung dụng cụ giữa các ô lồng có cá bệnh nếu không qua khử trùng. Đặc biệt, cần lưu ý hạn chế sự lây lan tác nhân gây bệnh thông qua người chăm sóc, hạn chế người ra vào trang trại, khách đến thăm quan nên áp dụng các biện pháp sử dụng bảo hộ lao động phù hợp và sát trùng.
Hàng ngày, thường xuyên quan sát hoạt động bơi, bắt mồi, màu sắc của cá để phát hiện sớm hiện tượng cá bị bệnh. Khi cá bị bệnh cần vớt ngay cá chết, loại cá bệnh nặng ra khỏi lồng và xử lý số cá này bằng nhiệt như nấu chín làm thức ăn gia súc, tránh ném cá bệnh, cá chết ra ngoài lồng nuôi, tránh dùng cá chết bệnh cho các loài cá nuôi khác dùng tươi khi chưa xử lý nhiệt.
Vào mùa mưa nhiều là thời điểm dịch bệnh dễ bùng phát, cần bổ sung Vitamin C liều lượng 20 – 30 mg/kg cá/ngày, mỗi tháng cho ăn một đợt khoảng 7 – 10 ngày.
Thường xuyên vệ sinh lồng nuôi và môi trường xung quanh khu vực nuôi cá.
Có thể bạn quan tâm
Các loài cá khác nhau thích ứng một mức protein đậu nành cô đặc nhất định, đối với cá mú có thể dùng bao nhiêu % là tối ưu nhất?
Cá mú là một trong những đối tượng chính của nuôi biển ở nước ta. Loài nuôi này được đánh giá có nhiều tiềm năng mang về giá trị lớn hơn nữa
Tại Việt Nam bước đầu nghiên cứu và sản xuất thành công con giống cá mú lai này. Đây là đối tượng thuỷ sản có giá trị kinh tế được người nuôi thương phẩm