Phát Triển Tiềm Năng Cây Ngô Trên Đồng Đất Thanh Hóa

Ngô là 1 trong 4 cây trồng chủ lực trong sản xuất nông nghiệp của tỉnh ta. Hàng năm, diện tích trồng ngô của toàn tỉnh đạt khoảng 49.000 - 54.000 ha, với năng suất trung bình đạt khoảng 42 tạ/ha/vụ, sản lượng đạt hơn 200.000 tấn/năm.
Với những con số trên, hiện Thanh Hóa đang là tỉnh có diện tích trồng ngô và năng suất đứng thứ 2 trong toàn vùng Bắc Trung bộ. Hiện tại, cây ngô đang chiếm 10,8% trong diện tích đất nông nghiệp canh tác hàng năm, và chiếm 7% giá trị sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt của tỉnh.
Mặc dù đang chiếm vị trí không nhỏ trong ngành trồng trọt, song, theo như nhận định của các chuyên viên nông nghiệp tại nhiều cuộc hội nghị của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), đặc biệt gần đây nhất là cuộc họp về đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng bền vững, chất lượng, hiệu quả do đồng chí Nguyễn Đình Xứng, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch UBND tỉnh chủ trì, thì việc sản xuất ngô trên địa bàn tỉnh ta hiện vẫn chưa phát huy hết tiềm năng cả về diện tích và năng suất.
Bởi lẽ, do nông dân vẫn còn xem nhẹ khâu chăm sóc ngô, hoặc chưa chăm sóc đúng cách, đúng thời điểm, nên năng suất ngô vẫn đạt thấp hơn so với mặt bằng chung của cả nước. Bên cạnh đó, do hầu hết diện tích trồng ngô đều được bà con nông dân thu hoạch theo hình thức thủ công, bảo quản tại nông hộ, nên tỷ lệ thất thoát còn nhiều, chất lượng sản phẩm chưa cao.
Ngoài những khó khăn trên khiến cây ngô trên địa bàn tỉnh chưa phát huy tối đa tiềm năng, theo phân tích thì hiện nay, trên địa bàn tỉnh ta có khoảng hơn 32.000 ha đất trồng lúa cho hiệu quả kinh tế thấp do điều kiện tưới tiêu khó khăn.
Nếu một phần diện tích đất trồng lúa này được chuyển đổi sang trồng ngô đi kèm với việc áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và chăm sóc theo đúng quy trình kỹ thuật thì hiệu quả kinh tế sẽ cao hơn, bởi lẽ cây ngô có đặc tính khỏe mạnh, sinh trưởng tốt trong điều kiện thiếu nước cũng như chịu được ngập úng.
Thực tế từ huyện Ngọc Lặc cho thấy, hệ thống thủy lợi của huyện gặp nhiều khó khăn, nhiều diện tích đất trồng lúa thuộc vùng khó tưới luôn trong tình trạng thiếu nước, năng suất thấp. Từ năm 2010, huyện đã chuyển một số diện tích đất trồng lúa khó tưới, năng suất thấp sang trồng các giống ngô chịu hạn, kèm theo đó là sử dụng phân viên nén và áp dụng các biện pháp kỹ thuật thâm canh để tăng năng suất.
Sau nhiều vụ sản xuất, những diện tích được chuyển đổi này đều đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn từ 1,2 đến 1,5 lần so với trước kia. Bởi thế, huyện đã định hướng cho bà con nông dân trong huyện chuyển dần những diện tích đất sản xuất lúa khó tưới, năng suất thấp sang trồng ngô.
Trên cơ sở phân tích và kết quả thực tế tại nhiều địa phương trong tỉnh, Sở NN&PTNT đã có định hướng tăng diện tích gieo trồng ngô vụ đông và chuyển linh hoạt đất lúa sang trồng ngô, phấn đấu đến năm 2015 diện tích gieo trồng ngô của tỉnh sẽ đạt 60.000 ha (tăng 6.000 ha so với hiện nay), đến năm 2020 đạt 62.000 ha và sẽ tăng lên 72.000 ha năm 2025; năng suất tăng từ 42 tạ/ha như hiện nay lên 51 tạ/ha năm 2020 và tăng lên 55 tạ/ha năm 2025.
Cây ngô sẽ được bố trí trồng theo từng vùng. Đối với vùng ngô bãi ven sông, đất chuyên màu thuộc các huyện Vĩnh Lộc, Thiệu Hóa, Yên Định, Hoằng Hóa, Nga Sơn, Hậu Lộc sẽ được trồng 3 vụ/năm, kèm theo đó là áp dụng các biện pháp thâm canh tăng năng suất; đồng thời xây dựng các cơ sở phơi sấy, chế biến tập trung để bảo quản chất lượng hàng hóa.
Đối với vùng ngô trên sườn đồi thấp và bán sơn địa thuộc vùng khó tưới ở các huyện Cẩm Thủy, Thạch Thành, Ngọc Lặc, Bá Thước, Thọ Xuân, Thường Xuân sẽ được ưu tiên lựa chọn các bộ giống chống hạn, kèm theo đó là thời vụ, mật độ và các biện pháp thâm canh phù hợp để cho hiệu quả cao. Bên cạnh đó, Sở NN&PTNT sẽ chỉ đạo các địa phương tiếp tục mở rộng diện tích ngô trên đất 2 lúa ở các huyện có điều kiện; đồng thời, tăng cường liên kết với các doanh nghiệp để tổ chức sản xuất nguồn ngô giống...
Theo ông Đỗ Văn Kỳ, Trưởng phòng trồng trọt, Sở NN&PTNT thì: Cùng với việc đẩy mạnh công tác thu hoạch và chế biến, nhất là khâu phơi, sấy để bảo đảm chất lượng ngô thương phẩm cần đưa các giống ngô lai, năng suất cao, thích hợp gieo trồng vụ đông vào sản xuất đại trà để tăng năng suất và sản lượng.
Đối với ngô vụ đông, cần áp dụng đồng bộ các biện pháp kỹ thuật nhằm né, tránh thiên tai, phát huy lợi thế về giảm chi phí để đạt hiệu quả sản xuất cao nhất.
Đưa vào gieo trồng một số loại giống ngô có khả năng trồng dầy, sinh khối lớn để làm thức ăn gia súc, nhất là cho trang trại chăn nuôi bò sữa tại các vùng được quy hoạch nuôi bò sữa; bố trí một phần diện tích nhất định tại các huyện gần đô thị để gieo trồng các giống ngô thực phẩm ăn tươi, như: ngô nếp, ngô đường... làm sản phẩm hàng hóa phục vụ tiêu dùng...
Hy voång rằng, với sự định hướng đúng đắn của ngành nông nghiệp tỉnh nhà, cùng với các giải pháp sẽ được thực hiện đồng bộ, cây ngô sẽ phát huy được tối đa tiềm năng, thế mạnh trên đồng đất tỉnh Thanh.
Có thể bạn quan tâm

Tính đến năm 2014, tỉnh Sóc Trăng có gần 30 doanh nghiệp xuất khẩu, trong đó có 10 doanh nghiệp xuất khẩu thủy, hải sản các loại, 3 doanh nghiệp xuất khẩu gạo, 4 doanh nghiệp xuất khẩu nông sản và các doanh nghiệp còn lại xuất khẩu mặt hàng bánh pía - lạp xưởng, vàng, ngọc trai...

Thị trường XK gạo đang gặp khó trở lại khi nguồn cung trên thế giới tăng mạnh trong những tháng cuối năm, trong khi nhu cầu NK đã giảm sau mấy tháng sôi động vừa qua.

Dù đã bước vào niên vụ sản xuất mía đường chính vụ, nhưng không khí tranh thu mua nguyên liệu tại khu vực ĐBSCL năm nay không tái diễn. Hiện tượng này được đánh giá là khá “lạ”, bởi 15 năm qua, các nhà máy đường ở khu vực luôn trong cảnh tranh mua, tranh bán mía nguyên liệu khi vào vụ. Năm nay, phải đến giữa tháng 10, các nhà máy đường mới bắt đầu vào vụ, trong khi đó, vụ mía đường chính hàng năm mở màn từ tháng 9.

Từ đầu năm tới nay, trong khi xuất khẩu mực, bạch tuộc của Việt Nam vào thị trường Hàn Quốc và EU cho thấy sự tăng trưởng mạnh mẽ thì giá trị xuất khẩu sang Nhật Bản sụt giảm do các hàng rào kỹ thuật và sang Nga, Australia thiếu ổn định.

Theo ông Dũng, 18 giống cây thủy sinh xuất bán đều được nhập khẩu từ chính Đan Mạch và Singapore. Sau khi được nhân giống trong phòng thí nghiệm và nuôi lớn đến mức có thể sống trong môi trường nước, công ty sẽ xuất khẩu trở lại các nước này.